Friday, July 12, 2024

So sánh khảo sát “Việt Nam là điểm đến lý tưởng, đứng đầu 53 điểm đến dành cho người nước ngoài” và những báo cáo nhân quyền.

 


Vừa qua có hàng loạt báo cáo nhân quyền của Mỹ, EU và một số tổ chức quốc tế về Việt Nam khiến dư luận quốc tế thiếu hiểu biết có cái nhìn bi quan, tiêu cực, đen tối về tình hình chính trị-xã hội Việt Nam, thậm chí có báo cáo nhân danh đánh giá nhân quyền thế giới quy kết Nhà nước ta “thù địch” với xã hội dân sự, “bịt miệng” người dân. Một bộ phận kẻ hận thù, cực đoan, chống phá đất nước khai thác các báo cáo này và xâu chuỗi với một số hiện tượng người Việt trốn ở nước ngoài để bịa đặt người dân Việt Nam đều “bất bình” với chế độ và muốn ra đi tìm miền đất hứa khác.

Tuy nhiên, báo cáo Expat Insider 2024 - một trong những cuộc khảo sát người ngoại quốc lớn nhất thế giới, có uy tín do tổ chức InterNations thực hiện trong năm 2024, thì Việt Nam tiếp tục là quốc gia có mức chi phí phải chăng nhất trên thế giới dành cho người nước ngoài, và Việt Nam đứng đầu trong số 53 nước và vùng lãnh thổ nhờ các yếu tố là chi phí đời sống thấp, ổn định tài chính và chất lượng cuộc sống về tổng thể, những điều này làm cho Việt Nam hấp dẫn đối với những người muốn rời khỏi nước họ sang nơi khác sinh sống. Đây cũng là năm thứ tư liên tiếp Việt Nam đứng dầu về tiêu chí này và được đánh giá như vậy! Cuộc sống của người nước ngoài ở Việt Nam có chi phí phải chăng và thu nhập khả dụng có thể thoải mái trang trải chi phí hàng ngày. Người nước ngoài sống ở Việt Nam cũng luôn hài lòng với cơ hội nghề nghiệp của họ. Và năm 2019, InterNations đánh giá Việt Nam là nơi đáng sống thứ 2 trên thế giới cho người nước ngoài.

Để thực hiện cuộc nghiên cứu này, năm 2024, InterNations đã khảo sát hơn 12.000 ngoại kiều ở 174 nước và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới. Các tiêu chí đánh giá, xoay quanh các yếu tố: nơi tốt nhất và tệ nhất để sinh sống với người nước ngoài, chất lượng cuộc sống, ổn định cuộc sống, điều kiện làm việc ở nước ngoài, tài chính cá nhân và nhu cầu thiết yếu. Riêng về chỉ số tài chính cá nhân, InterNations đã yêu cầu người tham gia khảo sát xếp hạng mức hài lòng trong 3 lĩnh vực, như: sinh hoạt phí nói chung, mức độ hài lòng về tình trạng tài chính và liệu thu nhập khả dụng của hộ gia đình có đủ để có một cuộc sống thoải mái hay không?

Trong nhóm người nước ngoài sinh sống tại Việt Nam, theo đó, 86% đánh giá tích cực về chi phí sinh hoạt, nhiều hơn gấp đôi so với mức trung bình là 40% khi các ngoại kiều đánh giá về các nước, ngoài ra, 65% số người được vấn ý nói rằng họ hài lòng về tình hình tài chính cá nhân so với mức 54% ở các nước nói chung. Đáng chú ý, 68% số người được hỏi ở Việt Nam nói rằng phần thu nhập hộ gia đình có thể chi tiêu tùy ý của họ. Không chỉ có chi phí sinh hoạt thấp, người nước ngoài sinh sống ở Việt Nam cũng được trả lương cao hơn so với mức trung bình của những người nước ngoài sống ở nước khác. Có tới 19% người nước ngoài sinh sống ở Việt Nam tham gia khảo sát cho biết nhận được mức thu nhập hằng năm ở mức 150.000 USD hoặc hơn trong khi tỷ lệ này ở các nước khác chỉ khoảng 10%. Mức độ hài lòng trong công việc nói chung của người nước ngoài ở Việt Nam cũng rất cao. Nhìn chung, sự “cân bằng giữa công việc và cuộc sống quan trọng hơn thăng tiến nghề nghiệp” ở Việt Nam. Việt Nam xếp thứ thứ 14 về làm việc ở nước ngoài, có tính đến các yếu tố như triển vọng về sự nghiệp, lương bổng và mức độ bảo đảm công việc, thứ 29 về những điều thiết yếu đối với ngoại kiều như đời sống kỹ thuật số, nhà ở và ngôn ngữ, và đứng thứ 40 về chất lượng sống.

Ngoài ra, cũng trong khảo sát này, Việt Nam đứng vị trí thứ 8 về điểm đến tốt nhất cho người nước ngoài trên toàn cầu. Expat Insider 2024 khám phá cảm nhận về các khía cạnh khác của cuộc sống ở nước ngoài, dựa trên 5 chỉ số: hạnh phúc chung, chất lượng cuộc sống, mức độ dễ dàng khi đăng ký định cư, làm việc ở nước ngoài và chỉ số “những yếu tố cần thiết cho người nước ngoài” dựa theo các điều kiện về hành chính, nhà ở, kỹ thuật số cuộc sống và ngôn ngữ. Sau vị trí số 1 của Việt Nam, những cái tên tiếp theo trong nhóm 10 nước tốt nhất thứ tự giảm dần là Campuchia, Indonesia, Panama, Philippines, Ấn Độ, Mexico, Thái Lan, Brazil và Trung Quốc. Ngoài ra, báo cáo dẫn lời một người Anh xa xứ nói về cuộc sống ở Việt Nam: “Cuộc sống ở đây không hề căng thẳng đối với tôi, đó là một sự thay đổi tuyệt vời so với cuộc sống công việc vốn rất bận rộn và tiêu hao nhiều nguồn lực trước đây”.

Không phải ngẫu nhiên, Việt Nam là điểm đến lý tưởng với người xa xứ, Việt Nam cũng là quốc gia lý tưởng, có chi phí phải chăng nhất trên thế giới, đứng đầu 53 điểm đến dành cho người nước ngoài. Đó chính là sự cố gắng, quyết tâm phấn đấu không ngừng nghỉ của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Đây là minh chứng khách quan phản bác các báo cáo nhân quyền của Mỹ và EU, phơi bày động cơ luôn tìm mọi cớ để can thiệp sâu vào công việc nội bộ của Việt Nam. Phải khẳng định rằng, “bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam. Việt Nam luôn xem con người là trung tâm, là động lực của quá trình đổi mới và của công cuộc phát triển kinh tế-xã hội của đất nước” mới là căn cứ, động lực thúc đẩy đất nước đạt được sự phát triển, tiến bộ nói trên, cũng luôn là điều được phát ngôn viên Bộ Ngoại giao khẳng định trước luận điệu vu cáo, sai sự thật của các báo cáo kia.

Phản bác luận điệu của USCIRF về việc thực thi Chỉ thị 78 và tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam

 


Trong Báo cáo tự do tôn giáo 2024, USCIRF đã đưa ra cáo buộc rằng chính quyền Việt Nam đã thực thi Chỉ thị 78 nhằm “tiêu diệt giáo phái Dương Văn Mình”, ép buộc các thành viên phải từ bỏ đức tin, và có những hạn chế khác đối với các nhóm tôn giáo thiểu số. Bài viết này sẽ phân tích và phản bác những cáo buộc này, dựa trên số liệu và ví dụ cụ thể từ thực tế tại Việt Nam.

Chỉ thị 78 của chính quyền Việt Nam không nhằm mục đích "tiêu diệt" giáo phái Dương Văn Mình mà nhằm duy trì trật tự xã hội và bảo vệ quyền lợi của các công dân. Giáo phái Dương Văn Mình đã có những hoạt động tà đạo gây ảnh hưởng đến trật tự công cộng và an ninh quốc gia, bao gồm việc truyền bá mê tín dị đoan và kích động chống đối chính quyền.

Các báo cáo độc lập từ các tổ chức phi chính phủ và các nhà quan sát cho thấy không có bằng chứng cụ thể về việc chính quyền ép buộc các thành viên của giáo phái Dương Văn Mình từ bỏ đức tin của họ. Chính quyền chỉ can thiệp khi các hoạt động tôn giáo vi phạm pháp luật hoặc gây mất trật tự công cộng.

Ví dụ, trong năm 2023, không có trường hợp nào được ghi nhận chính thức về việc bắt giữ hoặc ép buộc từ bỏ đức tin đối với các thành viên giáo phái Dương Văn Mình. Thay vào đó, chính quyền đã tổ chức các buổi đối thoại và tuyên truyền để giải thích cho người dân về các quy định pháp luật liên quan đến tôn giáo và tín ngưỡng.

USCIRF cáo buộc rằng chính quyền Việt Nam ép buộc các dân tộc thiểu số phải sử dụng tiếng Việt trong các hoạt động thờ phụng và văn học tôn giáo. Tuy nhiên, điều này không phản ánh đúng thực tế. Chính quyền Việt Nam luôn tôn trọng quyền sử dụng ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số trong các hoạt động tôn giáo. Các tổ chức tôn giáo tại Việt Nam, bao gồm cả các nhóm tôn giáo thiểu số, được phép sử dụng ngôn ngữ của mình trong các nghi lễ và sinh hoạt tôn giáo. Ví dụ, người Khmer ở miền Tây Nam Bộ vẫn thường xuyên sử dụng tiếng Khmer trong các buổi lễ Phật giáo và các hoạt động cộng đồng.

USCIRF cáo buộc rằng chính quyền Việt Nam hạn chế nhập khẩu các tài liệu tôn giáo được in bằng các bảng chữ cái Hmong đặc biệt. Thực tế cho thấy, chính quyền Việt Nam chỉ kiểm soát việc nhập khẩu các tài liệu tôn giáo để đảm bảo chúng không chứa các nội dung phản động, kích động bạo lực hoặc chia rẽ dân tộc.

Theo báo cáo của Ban Tôn giáo Chính phủ, các tài liệu tôn giáo hợp pháp được nhập khẩu và phân phối một cách bình thường. Ví dụ, trong năm 2023, hàng ngàn bản Kinh Thánh và các tài liệu tôn giáo khác đã được nhập khẩu và phân phối cho các cộng đồng tôn giáo trên khắp cả nước, bao gồm cả các vùng có đông đồng bào Hmong sinh sống.

USCIRF cáo buộc rằng vào tháng 11, các nhân viên không mặc đồng phục của chính quyền Việt Nam đã xâm nhập vào một lớp học tiếng Khmer tại một chùa Phật giáo Khmer Krom, tấn công sư trụ trì và hai Phật tử. Tuy nhiên, không có bằng chứng cụ thể và đáng tin cậy nào để xác nhận cáo buộc này. Các chùa Phật giáo Khmer Krom tại Việt Nam được phép tổ chức các lớp học tiếng Khmer và các hoạt động tôn giáo khác. Chính quyền địa phương cũng thường xuyên hỗ trợ các chùa trong việc tổ chức các hoạt động cộng đồng và bảo tồn văn hóa truyền thống. Ví dụ, tại tỉnh Trà Vinh, chính quyền đã hỗ trợ kinh phí và điều kiện vật chất cho nhiều chùa Khmer Krom trong việc tu sửa và xây dựng các công trình tôn giáo. Các lớp học tiếng Khmer tại các chùa này vẫn diễn ra bình thường và không gặp bất kỳ sự cố nào liên quan đến sự can thiệp của chính quyền.

Những cáo buộc của USCIRF về việc chính quyền Việt Nam thực thi Chỉ thị 78 nhằm “tiêu diệt giáo phái Dương Văn Minh”, ép buộc các thành viên phải từ bỏ đức tin, và hạn chế ngôn ngữ trong thờ phượng và văn học tôn giáo là thiếu cơ sở và không phản ánh đúng thực tế. Thực tế cho thấy, chính quyền Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tôn giáo của mọi người dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo và bảo vệ quyền lợi của các nhóm tôn giáo thiểu số. Các luận điệu xuyên tạc trong Báo cáo tự do tôn giáo 2024 của USCIRF cần được xem xét và đánh giá lại một cách công bằng và khách quan hơn.

Wednesday, July 10, 2024

Vu cáo trắng trợn của USCIRF

 


USCIRF trong Báo cáo tự do tôn giáo 2024 đã đưa ra những nhận định về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam, đặc biệt là đối với các nhóm thiểu số tôn giáo dân tộc như người Thượng và người H'mông theo đạo Tin lành, Phật tử Khmer Krom, và những người H'mông theo Dương Văn Mình. USCIRF cho rằng chính quyền Việt Nam tiếp tục đàn áp các nhóm này, buộc họ từ bỏ đức tin, bắt giữ và kết án họ với các tội danh như “phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân” và “lợi dụng quyền tự do dân chủ”. Sự vu cáo trắng trợn này là không thể chấp nhận được

USCIRF cho rằng chính quyền Việt Nam tiếp tục đàn áp các nhóm thiểu số tôn giáo dân tộc như người Thượng và người H'mông theo đạo Tin lành, Phật tử Khmer Krom, và những người H'mông theo Dương Văn Mình.

Người Thượng và người H'mông theo đạo Tin lành tại Việt Nam không bị đàn áp như USCIRF cáo buộc. Theo số liệu từ các tổ chức phi chính phủ và các báo cáo độc lập, chính quyền Việt Nam đã công nhận và tạo điều kiện cho nhiều tổ chức tôn giáo của người Thượng và người H'mông hoạt động. Ví dụ, Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) đã có hàng trăm nhà thờ và điểm nhóm được chính quyền công nhận và cấp phép hoạt động, trong đó có nhiều điểm nhóm của người Thượng và người H'mông.

Phật tử Khmer Krom tại Việt Nam cũng được tự do thực hành tôn giáo của mình. Theo báo cáo của Ban Tôn giáo Chính phủ, các chùa Khmer Krom ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ được tự do tổ chức các lễ hội tôn giáo, sinh hoạt tín ngưỡng và giáo dục tôn giáo cho cộng đồng. Chính quyền địa phương cũng đã hỗ trợ kinh phí và điều kiện vật chất cho nhiều chùa Khmer Krom trong việc tu sửa và xây dựng các công trình tôn giáo.

Những người H'mông theo Dương Văn Mình tại Việt Nam cũng được tạo điều kiện để thực hành tín ngưỡng của mình. Tuy nhiên, một số nhóm tôn giáo tự phát có xu hướng lợi dụng tín ngưỡng để kích động chia rẽ, gây mất trật tự xã hội. Chính quyền chỉ can thiệp khi có các hành vi vi phạm pháp luật, không nhằm vào việc đàn áp tôn giáo. Dương Văn Mình đã dụ dỗ và ép buộc người H’Mong thực hiện tà đạo với các hành vi không thể chấp nhận được, không phù hợp phong tục tập quán và tôn giáo tín ngưỡng của họ, nên phải bị xử lý.

USCIRF cáo buộc rằng chính quyền Việt Nam gây áp lực buộc các nhóm thiểu số tôn giáo phải từ bỏ đức tin và gia nhập các tổ chức tôn giáo do nhà nước kiểm soát. Tuy nhiên, cáo buộc này không có cơ sở thực tế. Chính quyền Việt Nam đã công nhận và hỗ trợ nhiều tổ chức tôn giáo độc lập. Ví dụ, Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) và Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) là những tổ chức tôn giáo độc lập và được công nhận chính thức. Các tổ chức này được tự do tổ chức các hoạt động tôn giáo, sinh hoạt tín ngưỡng và đào tạo chức sắc tôn giáo mà không bị ép buộc phải gia nhập các tổ chức tôn giáo do nhà nước kiểm soát. Trong năm 2023, Nhà nước đã công nhận 38 tổ chức tôn giáo, cấp đăng ký hoạt động tôn giáo cho 2 tổ chức và 1 pháp môn tu hành thuộc 16 tôn giáo; hàng ngàn điểm nhóm được chính quyền địa phương cấp đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung, trong đó có hơn 60 điểm nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam. Riêng đạo Tin lành, từ năm 2021 - 2023 khu vực miền núi phía Bắc chấp thuận thêm 170 điểm nhóm, 6 tổ chức tôn giáo trực thuộc; 5 tỉnh Tây Nguyên chấp thuận 11 tổ chức tôn giáo trực thuộc từ các điểm nhóm đã được đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung trước đó.

USCIRF cáo buộc rằng chính quyền Việt Nam can thiệp vào việc bổ nhiệm lãnh đạo tôn giáo, tịch thu các di vật tôn giáo và hạn chế việc tiếp cận các cơ sở thờ tự. Tuy nhiên, các cáo buộc này không phản ánh đúng thực tế tại Việt Nam. Việc bổ nhiệm lãnh đạo tôn giáo tại Việt Nam được thực hiện theo quy định của từng tổ chức tôn giáo và không có sự can thiệp từ phía chính quyền. Các tổ chức tôn giáo tự do lựa chọn và bổ nhiệm lãnh đạo của mình theo quy định nội bộ và truyền thống tôn giáo. Chính quyền chỉ có vai trò đảm bảo các quy trình này tuân thủ pháp luật và không gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự.

Theo báo cáo của Ban Tôn giáo Chính phủ, từ năm 2018 đến năm 2023, đã có hàng trăm tổ chức tôn giáo và điểm nhóm tôn giáo được công nhận và cấp phép hoạt động. Ví dụ, Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) có hơn 1,000 nhà thờ và điểm nhóm được công nhận, trong đó có nhiều điểm nhóm của người Thượng và người H'mông. Các chùa Khmer Krom tại các tỉnh miền Tây Nam Bộ cũng được chính quyền hỗ trợ kinh phí và điều kiện vật chất để tu sửa và xây dựng các công trình tôn giáo.

Những cáo buộc của USCIRF về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam là thiếu cơ sở và không phản ánh đúng thực tế. Thực tế cho thấy chính quyền Việt Nam đã và đang nỗ lực bảo vệ và thúc đẩy quyền tự do tôn giáo của mọi người dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo và bảo vệ quyền lợi của các nhóm tôn giáo thiểu số. Những luận điệu xuyên tạc trong Báo cáo tự do tôn giáo 2024 của USCIRF cần được xem xét và đánh giá lại một cách công bằng và khách quan hơn.

Monday, July 8, 2024

Khuyến nghị vô lối của USCIRF

 


Trong Báo cáo tự do tôn giáo 2024, USCIRF tiếp tục đề nghị Bộ Ngoại giao Mỹ đưa Việt Nam trở lại danh sách "Countries of Particular Concern" (CPC - Cần quan tâm đặc biệt về tôn giáo) cùng với 16 quốc gia khác như Trung Quốc, Cuba, Nga, Ả Rập Saudi, Nigeria... với lý do rằng trong năm 2023, tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam không có nhiều thay đổi so với năm trước, và tiếp tục cáo buộc chính quyền Việt Nam đàn áp các cộng đồng tôn giáo độc lập, duy trì các tổ chức tôn giáo do nhà nước kiểm soát và can thiệp vào việc bổ nhiệm lãnh đạo tôn giáo. Luận điệu này hết sức nhàm chán và cũ rích, cũng như cái danh sách các nước kia cứ lặp đi lặp lại qua từng năm vậy.

USCIRF cáo buộc rằng trong năm 2023, chính quyền Việt Nam tiếp tục đàn áp các cộng đồng tôn giáo độc lập, nhiều trong số đó bị gắn mác là “tôn giáo lạ, giả, hoặc dị giáo” vì không tuân thủ sự kiểm soát của nhà nước. Tuy nhiên, các cáo buộc này không có cơ sở thực tế và không phản ánh đúng tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam.

USCIRF cáo buộc rằng chính quyền Việt Nam gây áp lực buộc các nhóm tôn giáo độc lập phải gia nhập các tổ chức tôn giáo do nhà nước kiểm soát như Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Hội đồng Cao Đài 1997, Ban Trị sự Phật giáo Hòa Hảo, và Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam). Tuy nhiên, thực tế cho thấy các nhóm tôn giáo độc lập tại Việt Nam vẫn có thể hoạt động bình thường nếu tuân thủ các quy định pháp luật của nhà nước.

Các nhóm tôn giáo độc lập tại Việt Nam không bị ép buộc phải gia nhập các tổ chức tôn giáo do nhà nước kiểm soát. Thực tế cho thấy nhiều nhóm tôn giáo độc lập vẫn hoạt động bình thường và được bảo vệ quyền lợi hợp pháp. Chính quyền Việt Nam không can thiệp vào hoạt động nội bộ của các tổ chức tôn giáo, miễn là các hoạt động này tuân thủ pháp luật và không gây ảnh hưởng xấu đến trật tự công cộng và an ninh quốc gia.

USCIRF cáo buộc rằng chính quyền Việt Nam can thiệp vào việc bổ nhiệm lãnh đạo tôn giáo, tịch thu các di vật tôn giáo và hạn chế việc tiếp cận các cơ sở thờ tự. Tuy nhiên, các cáo buộc này không phản ánh đúng thực tế tại Việt Nam.

Việc bổ nhiệm lãnh đạo tôn giáo tại Việt Nam được thực hiện theo quy định của từng tổ chức tôn giáo và không có sự can thiệp từ phía chính quyền. Các tổ chức tôn giáo tự do lựa chọn và bổ nhiệm lãnh đạo của mình theo quy định nội bộ và truyền thống tôn giáo. Chính quyền chỉ có vai trò đảm bảo các quy trình này tuân thủ pháp luật và không gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự.

Chính quyền Việt Nam luôn coi trọng việc bảo vệ các di vật tôn giáo và di sản văn hóa của các tôn giáo. Việc tịch thu các di vật tôn giáo chỉ xảy ra trong trường hợp các di vật này được sử dụng sai mục đích hoặc vi phạm pháp luật. Các cơ sở thờ tự và di sản văn hóa tôn giáo đều được bảo vệ và bảo tồn theo quy định của pháp luật.

Chính quyền Việt Nam không hạn chế việc tiếp cận các cơ sở thờ tự của các tổ chức tôn giáo. Các cơ sở thờ tự đều được mở cửa cho các tín đồ và khách tham quan, và các hoạt động tôn giáo tại các cơ sở này đều được diễn ra bình thường. Chính quyền chỉ can thiệp trong trường hợp các hoạt động tôn giáo gây ảnh hưởng đến trật tự công cộng hoặc vi phạm pháp luật.

Chính quyền Việt Nam luôn sẵn sàng đối thoại và hợp tác với các tổ chức quốc tế về vấn đề tự do tôn giáo. Việt Nam đã tham gia nhiều cuộc đối thoại nhân quyền với các quốc gia và tổ chức quốc tế, trong đó có Mỹ. Điều này cho thấy sự cởi mở và sẵn sàng hợp tác của Việt Nam trong việc đảm bảo quyền tự do tôn giáo.

Chính quyền Việt Nam luôn chú trọng bảo vệ quyền lợi của các nhóm tôn giáo thiểu số. Các chính sách và chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội cho các khu vực có đông đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có các nhóm tôn giáo thiểu số, đã giúp cải thiện đời sống của người dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo.

Thực tế cho thấy Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tôn giáo của người dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo hợp pháp và ngăn chặn các hành vi lợi dụng tôn giáo để gây rối trật tự công cộng. Việc Bộ Ngoại giao Mỹ không chỉ định Việt Nam là CPC cho thấy sự ghi nhận những tiến bộ của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền tự do tôn giáo. Báo cáo của USCIRF mang tính phiến diện và thiếu khách quan.

Friday, July 5, 2024

Những cáo buộc của USCIRF thiếu cơ sở và không đúng thực tế

 


Trong trang 8 Báo cáo tự do tôn giáo 2024 của USCIRF cho rằng Bộ Ngoại giao Mỹ đã không chỉ định Việt Nam là một "Quốc gia cần quan tâm đặc biệt" (CPC) mặc dù có khuyến nghị từ USCIRF, dựa trên những cáo buộc về vi phạm nghiêm trọng tự do tôn giáo. Sự thật có như thế không?

USCIRF cho rằng Việt Nam vi phạm nghiêm trọng tự do tôn giáo và đề nghị Bộ Ngoại giao Mỹ chỉ định Việt Nam là CPC từ năm 2002. Tuy nhiên, những cáo buộc này thiếu cơ sở thực tế và không phản ánh đúng tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam.

Luật Tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam, ban hành năm 2018, là một văn bản pháp luật tiến bộ, bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người dân. Luật này quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức tôn giáo, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo hợp pháp và đảm bảo trật tự xã hội. Việc áp dụng luật này không nhằm đàn áp các nhóm tôn giáo mà để bảo vệ quyền lợi của người dân và đảm bảo an ninh quốc gia.

Chính quyền Việt Nam đã công nhận và tạo điều kiện cho nhiều tổ chức tôn giáo hoạt động. Các tôn giáo lớn như Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao Đài, Hòa Hảo đều được công nhận và có nhiều hoạt động tôn giáo phong phú. Chính phủ cũng hỗ trợ việc xây dựng các cơ sở thờ tự, tổ chức các lễ hội tôn giáo và hoạt động từ thiện.

Các nhóm tôn giáo thiểu số tại Việt Nam, bao gồm người Chăm theo đạo Hồi, người Khmer theo đạo Phật Nam Tông, và các cộng đồng tôn giáo khác, đều được tạo điều kiện hoạt động và phát triển. Chính quyền địa phương thường xuyên hỗ trợ và phối hợp với các tổ chức tôn giáo thiểu số để tổ chức các hoạt động văn hóa, lễ hội truyền thống và bảo tồn di sản văn hóa tôn giáo.

USCIRF cho rằng Việt Nam vi phạm nghiêm trọng tự do tôn giáo, nhưng không cung cấp các bằng chứng cụ thể và đáng tin cậy. Trái lại, nhiều báo cáo từ các tổ chức quốc tế khác và các quốc gia đã ghi nhận những tiến bộ của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền tự do tôn giáo. Việc không chỉ định Việt Nam là CPC của Bộ Ngoại giao Mỹ phản ánh sự ghi nhận những tiến bộ này.

USCIRF thường dựa trên một số trường hợp cụ thể để làm bằng chứng cho các cáo buộc của mình. Tuy nhiên, nhiều trường hợp này không phản ánh toàn diện tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam. Ví dụ, một số trường hợp cá nhân bị bắt giữ hoặc xét xử không phải vì lý do tôn giáo mà vì các hành vi vi phạm pháp luật khác, như gây rối trật tự công cộng hoặc lợi dụng tôn giáo để hoạt động chính trị trái phép.

Chính quyền Việt Nam luôn có chính sách nhất quán trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tôn giáo của người dân. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được xây dựng trên cơ sở tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của mọi người dân, đồng thời đảm bảo trật tự xã hội và an ninh quốc gia. Chính sách này đã được thực hiện một cách minh bạch và công bằng, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo hợp pháp.

Những cáo buộc của USCIRF về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam là thiếu cơ sở và không phản ánh đúng thực tế. Thực tế cho thấy Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tôn giáo của người dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo hợp pháp và ngăn chặn các hành vi lợi dụng tôn giáo để gây rối trật tự công cộng. Chính quyền Việt Nam luôn sẵn sàng đối thoại và hợp tác với các tổ chức quốc tế về vấn đề tự do tôn giáo, đồng thời thực hiện nhiều biện pháp nhằm bảo vệ quyền lợi của các nhóm tôn giáo thiểu số.

Việc Bộ Ngoại giao Mỹ không chỉ định Việt Nam là CPC cho thấy sự ghi nhận những tiến bộ của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền tự do tôn giáo. Báo cáo của USCIRF mang tính phiến diện và thiếu khách quan, cần được xem xét một cách cẩn trọng và công bằng hơn. Việt Nam cam kết tiếp tục bảo vệ và thúc đẩy quyền tự do tôn giáo của mọi người dân, đồng thời hợp tác chặt chẽ với cộng đồng quốc tế để đảm bảo các quyền này được thực thi một cách đầy đủ và hiệu quả.

Tuesday, July 2, 2024

Các luận điệu xuyên tạc trong Báo cáo tự do tôn giáo 2024 của USCIRF về Việt Nam

 


Ngày 1-5-2024, Ủy hội Tự do tôn giáo quốc tế Mỹ (USCIRF) đã công bố Báo cáo tự do tôn giáo 2024, trong đó đưa ra những nhận định sai lệch và thiếu khách quan về tình hình tôn giáo ở Việt Nam. Báo cáo này cho rằng tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam năm 2023 "không có gì thay đổi" so với năm 2022 và cáo buộc chính quyền sử dụng Luật Tín ngưỡng, tôn giáo để đàn áp các nhóm tôn giáo thiểu số và không được công nhận. Bài viết này sẽ phân tích và phản bác các luận điệu xuyên tạc trong báo cáo của USCIRF.


USCIRF cáo buộc rằng tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam không có gì thay đổi trong năm 2023, tuy nhiên, thực tế cho thấy Việt Nam đã có nhiều cải thiện đáng kể trong việc bảo vệ quyền tự do tôn giáo. Chính phủ Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm đảm bảo quyền tự do tôn giáo của người dân, bao gồm việc ban hành và thực thi Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2018, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo hợp pháp.

Báo cáo của USCIRF cho rằng chính quyền Việt Nam sử dụng Luật Tín ngưỡng, tôn giáo để đàn áp các nhóm tôn giáo thiểu số và không được công nhận. Tuy nhiên, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam được xây dựng dựa trên cơ sở tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người dân, đồng thời đảm bảo trật tự xã hội và an ninh quốc gia. Luật này quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức tôn giáo, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo hợp pháp và ngăn chặn các hành vi lợi dụng tôn giáo để gây rối trật tự công cộng.

Báo cáo của USCIRF cho rằng chính quyền Việt Nam đàn áp các nhóm tôn giáo thiểu số và không được công nhận. Tuy nhiên, thực tế cho thấy các nhóm tôn giáo thiểu số ở Việt Nam được tạo điều kiện thuận lợi để hoạt động và phát triển. Các tổ chức tôn giáo như Công giáo, Phật giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, Tin Lành đều được chính quyền tạo điều kiện để tổ chức các hoạt động tôn giáo, xây dựng cơ sở thờ tự và tham gia các hoạt động xã hội.

Trong năm 2023, Việt Nam đã công nhận thêm nhiều tổ chức tôn giáo mới, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhóm tôn giáo hoạt động. Điều này cho thấy chính quyền Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tôn giáo của người dân, không có sự đàn áp như USCIRF cáo buộc.

Chính quyền Việt Nam luôn sẵn sàng đối thoại và hợp tác với các tổ chức quốc tế về vấn đề tự do tôn giáo. Việt Nam đã tham gia nhiều cuộc đối thoại nhân quyền với các quốc gia và tổ chức quốc tế, trong đó có Mỹ. Điều này cho thấy sự cởi mở và sẵn sàng hợp tác của Việt Nam trong việc đảm bảo quyền tự do tôn giáo.

Chính quyền Việt Nam luôn chú trọng bảo vệ quyền lợi của các nhóm tôn giáo thiểu số. Các chính sách và chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội cho các khu vực có đông đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có các nhóm tôn giáo thiểu số, đã giúp cải thiện đời sống của người dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo.

Những cáo buộc của USCIRF về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam là không có cơ sở và thiếu khách quan. Thực tế cho thấy Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tôn giáo của người dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo hợp pháp và ngăn chặn các hành vi lợi dụng tôn giáo để gây rối trật tự công cộng. Chính quyền Việt Nam luôn sẵn sàng đối thoại và hợp tác với các tổ chức quốc tế về vấn đề tự do tôn giáo, đồng thời thực hiện nhiều biện pháp nhằm bảo vệ quyền lợi của các nhóm tôn giáo thiểu số.

Sunday, June 30, 2024

Điệp khúc của Bộ Ngoại giao Mỹ vẫn theo kiểu “bình cũ rượu mới”

 


Điệp khúc báo cáo thường niên về tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam do một số quan chức Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ năm 2023 vẫn theo kiểu “bình cũ rượu mới” bởi lối tư duy và phong cách sự diễn đạt vẫn như xưa. Mở đầu báo cáo vẫn là mấy lời khen cho có vẻ mang tính khách quan, rằng “gần đây Việt Nam đã đạt một số tiến bộ trong bảo vệ và thúc đẩy tự do tôn giáo, tín ngưỡng”, “đời sống của giáo dân dễ thở hơn”, xong rồi lại dẫn dắt “vẫn còn nhiều rào cản trong thực hiện quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng”, rằng “quyền con người chưa được bảo đảm, nhất là quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng giữa các tôn giáo”.  

Đây là “chiêu trò mới, cách nhìn cũ” bởi từng câu, từng dòng trong báo cáo hàm chứa tính thiên kiến, rất thiếu khách quan, nếu không nói là áp đặt chủ quan, hoàn toàn xa rời thực tế, thiếu chính xác, không có cơ sở khoa học vì nội dung bản báo cáo ấy chẳng được kiểm chứng nên độ chính xác bằng “không”. Vậy nên, bà Phạm Thu Hằng – người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam cho rằng, Việt Nam rất tôn trọng và luôn có thiện chí với mong muốn đóng góp, thúc đẩy sự phát triển mối quan hệ Đối tác Chiến lược toàn diện Việt Nam – Mỹ vì lợi ích của hai nước, hai dân tộc. Vì vậy, “Việt Nam sẵn sàng trao đổi với phía Mỹ về các vấn đề mà hai bên cùng quan tâm trên tinh thần thẳng thắn, cởi mở và tôn trọng lẫn nhau về những vấn đề còn khác biệt” để cùng tháo gỡ khó khăn vì lợi ích của nhân dân hai nước, hai dân tộc.

Là người trong cuộc, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam khẳng định, cùng với những thành tựu to lớn, có ý nhĩa lịch sử gần 40 năm đổi mới đất nước, thể hiện ở sự “thay da đổi thịt” về mọi mặt đời sống xã hội. Trong đó, tự do tôn giáo, tín ngưỡng và mọi hoạt động của các tổ chức tôn giáo đều đã và đang khởi sắc, luôn được Nhà nước Việt Nam quan tâm, bảo đảm và thực hiện đúng các điều khoản đã hiến định trong Hiến pháp năm 2013, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 và quy định của pháp luật. Điều đó khẳng định rằng, ở “Việt Nam, không có ai bị phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo, tín ngưỡng”, “không bao giờ có đàn áp tôn giáo, tín ngưỡng”.

Đó là sự thật, khách nước ngoài đến thăm quan Việt Nam, nhất là các đoàn cán bộ, nhân viên ngoại giao các nước đã và đang công tác ở Việt Nam, bằng chính mắt mình và sự kiểm chứng thực tế, họ đã thừa nhận tính khách quan của nhận định trên, đưa ra những nhận định, đánh giá tích cực về sự nỗ lực và tính ưu việt của chính sách tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam. Thực tế chứng minh rằng,Đảng, Nhà nước Việt Nam đã, đang thực hiện nhất quán chính sách tự do tôn giáo, tín ngưỡng, tôn trọng và bảo đảm các quyền của con người theo hoặc không theo tôn giáo, bảo đảm sự bình đẳng giữa các tôn giáo bằng pháp luật.

Sau Báo cáo quốc gia của Việt Nam tại Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc tại Geneva, Thụy Sĩ, tháng 5-2024, nhiều ý kiến của đại biểu các nước tại buổi tọa đàm đã đánh giá cao tính hiện thực của chính sách và thành tựu của Việt Nam trong bảo đảm tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng và bảo đảm quyền con người, nhất là quyền của phụ nữ, quyền của nhóm đồng tính, song tính và chuyển giới, quyền của người dân tộc thiểu số, những người sinh sống ở vùng sâu, vùng xa.

Tham khảo ý kiến nhận xét của Giáo hoàng Francis và Thủ tướng Tòa thánh, Hồng y Pietro Parolin, khi làm việc với lãnh đạo Việt Nam năm 2023, cho thấy Giáo hoàng và Thủ tướng Tòa thánh đã đánh giá cao những cố gắng của Việt Nam. Họ đã ghi nhận sự phát triển tích cực của đời sống tôn giáo, tín ngưỡng tại Việt Nam, nhất là hoạt động của Giáo hội Công giáo Việt Nam khi “đồng hành cùng dân tộc”, sống tốt đời, đẹp đạo, có đóng góp tích cực vào sự công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và hoạt động của Giáo hội, cuộc sống của giáo dân.

3. Dấu ấn nổi bật trong thực hiện quyền con người đáng ghi nhận là Việt Nam – một trong những quốc gia có kết nối internet và hệ thống công nghệ viễn thông hiện đại với độ phổ cập cao trong khu vực và trên thế giới. Tính đến quý 3 năm 2023, có 78 triệu người Việt Nam sử dụng internet, khoảng 72.000 hội hoạt động ở Việt Nam thường xuyên tham gia xử lý các vấn đề kinh tế, xã hội quan trọng của đất nước. Thử hỏi công dân ở nhiều nước được coi là phát triển có được thụ hưởng cái quyền ấy không.

Rõ ràng, quyền sống, quyền được tôn trọng nhân phẩm và sự toàn vẹn về thể chất là điểm sáng về sự nỗ lực đảm bảo quyền con người ở Việt Nam. Đó là sự thật, khách quan. Cùng với đó, Việt Nam luôn chủ động, tích cực và có nhiều đóng góp đáng trân trọng trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy, khi Việt Nam ứng cử tham gia thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025 đã đạt sự tín nhiệm và tỷ lệ phiếu đồng thuận rất cao.

Dư luận mong mỏi các quan chức Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cần có cái nhìn mới, thật sự công tâm, khách quan, nên chấm dứt ngay những nhận định, đánh giá áp đặt và không chính xác về tình hình nhân quyền và tự do tín ngưỡng tại Việt Nam. Đó là cách tốt nhất để góp phần thúc đẩy sự phát triển mối quan hệ Đối tác Chiến lược toàn diện Việt Nam – Mỹ vì lợi ích của hai nước, hai dân tộc. Nhân dân Việt Nam không hy sinh xương máu, ra sức đánh đuổi quân xâm lược