Friday, July 12, 2024

So sánh khảo sát “Việt Nam là điểm đến lý tưởng, đứng đầu 53 điểm đến dành cho người nước ngoài” và những báo cáo nhân quyền.

 


Vừa qua có hàng loạt báo cáo nhân quyền của Mỹ, EU và một số tổ chức quốc tế về Việt Nam khiến dư luận quốc tế thiếu hiểu biết có cái nhìn bi quan, tiêu cực, đen tối về tình hình chính trị-xã hội Việt Nam, thậm chí có báo cáo nhân danh đánh giá nhân quyền thế giới quy kết Nhà nước ta “thù địch” với xã hội dân sự, “bịt miệng” người dân. Một bộ phận kẻ hận thù, cực đoan, chống phá đất nước khai thác các báo cáo này và xâu chuỗi với một số hiện tượng người Việt trốn ở nước ngoài để bịa đặt người dân Việt Nam đều “bất bình” với chế độ và muốn ra đi tìm miền đất hứa khác.

Tuy nhiên, báo cáo Expat Insider 2024 - một trong những cuộc khảo sát người ngoại quốc lớn nhất thế giới, có uy tín do tổ chức InterNations thực hiện trong năm 2024, thì Việt Nam tiếp tục là quốc gia có mức chi phí phải chăng nhất trên thế giới dành cho người nước ngoài, và Việt Nam đứng đầu trong số 53 nước và vùng lãnh thổ nhờ các yếu tố là chi phí đời sống thấp, ổn định tài chính và chất lượng cuộc sống về tổng thể, những điều này làm cho Việt Nam hấp dẫn đối với những người muốn rời khỏi nước họ sang nơi khác sinh sống. Đây cũng là năm thứ tư liên tiếp Việt Nam đứng dầu về tiêu chí này và được đánh giá như vậy! Cuộc sống của người nước ngoài ở Việt Nam có chi phí phải chăng và thu nhập khả dụng có thể thoải mái trang trải chi phí hàng ngày. Người nước ngoài sống ở Việt Nam cũng luôn hài lòng với cơ hội nghề nghiệp của họ. Và năm 2019, InterNations đánh giá Việt Nam là nơi đáng sống thứ 2 trên thế giới cho người nước ngoài.

Để thực hiện cuộc nghiên cứu này, năm 2024, InterNations đã khảo sát hơn 12.000 ngoại kiều ở 174 nước và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới. Các tiêu chí đánh giá, xoay quanh các yếu tố: nơi tốt nhất và tệ nhất để sinh sống với người nước ngoài, chất lượng cuộc sống, ổn định cuộc sống, điều kiện làm việc ở nước ngoài, tài chính cá nhân và nhu cầu thiết yếu. Riêng về chỉ số tài chính cá nhân, InterNations đã yêu cầu người tham gia khảo sát xếp hạng mức hài lòng trong 3 lĩnh vực, như: sinh hoạt phí nói chung, mức độ hài lòng về tình trạng tài chính và liệu thu nhập khả dụng của hộ gia đình có đủ để có một cuộc sống thoải mái hay không?

Trong nhóm người nước ngoài sinh sống tại Việt Nam, theo đó, 86% đánh giá tích cực về chi phí sinh hoạt, nhiều hơn gấp đôi so với mức trung bình là 40% khi các ngoại kiều đánh giá về các nước, ngoài ra, 65% số người được vấn ý nói rằng họ hài lòng về tình hình tài chính cá nhân so với mức 54% ở các nước nói chung. Đáng chú ý, 68% số người được hỏi ở Việt Nam nói rằng phần thu nhập hộ gia đình có thể chi tiêu tùy ý của họ. Không chỉ có chi phí sinh hoạt thấp, người nước ngoài sinh sống ở Việt Nam cũng được trả lương cao hơn so với mức trung bình của những người nước ngoài sống ở nước khác. Có tới 19% người nước ngoài sinh sống ở Việt Nam tham gia khảo sát cho biết nhận được mức thu nhập hằng năm ở mức 150.000 USD hoặc hơn trong khi tỷ lệ này ở các nước khác chỉ khoảng 10%. Mức độ hài lòng trong công việc nói chung của người nước ngoài ở Việt Nam cũng rất cao. Nhìn chung, sự “cân bằng giữa công việc và cuộc sống quan trọng hơn thăng tiến nghề nghiệp” ở Việt Nam. Việt Nam xếp thứ thứ 14 về làm việc ở nước ngoài, có tính đến các yếu tố như triển vọng về sự nghiệp, lương bổng và mức độ bảo đảm công việc, thứ 29 về những điều thiết yếu đối với ngoại kiều như đời sống kỹ thuật số, nhà ở và ngôn ngữ, và đứng thứ 40 về chất lượng sống.

Ngoài ra, cũng trong khảo sát này, Việt Nam đứng vị trí thứ 8 về điểm đến tốt nhất cho người nước ngoài trên toàn cầu. Expat Insider 2024 khám phá cảm nhận về các khía cạnh khác của cuộc sống ở nước ngoài, dựa trên 5 chỉ số: hạnh phúc chung, chất lượng cuộc sống, mức độ dễ dàng khi đăng ký định cư, làm việc ở nước ngoài và chỉ số “những yếu tố cần thiết cho người nước ngoài” dựa theo các điều kiện về hành chính, nhà ở, kỹ thuật số cuộc sống và ngôn ngữ. Sau vị trí số 1 của Việt Nam, những cái tên tiếp theo trong nhóm 10 nước tốt nhất thứ tự giảm dần là Campuchia, Indonesia, Panama, Philippines, Ấn Độ, Mexico, Thái Lan, Brazil và Trung Quốc. Ngoài ra, báo cáo dẫn lời một người Anh xa xứ nói về cuộc sống ở Việt Nam: “Cuộc sống ở đây không hề căng thẳng đối với tôi, đó là một sự thay đổi tuyệt vời so với cuộc sống công việc vốn rất bận rộn và tiêu hao nhiều nguồn lực trước đây”.

Không phải ngẫu nhiên, Việt Nam là điểm đến lý tưởng với người xa xứ, Việt Nam cũng là quốc gia lý tưởng, có chi phí phải chăng nhất trên thế giới, đứng đầu 53 điểm đến dành cho người nước ngoài. Đó chính là sự cố gắng, quyết tâm phấn đấu không ngừng nghỉ của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Đây là minh chứng khách quan phản bác các báo cáo nhân quyền của Mỹ và EU, phơi bày động cơ luôn tìm mọi cớ để can thiệp sâu vào công việc nội bộ của Việt Nam. Phải khẳng định rằng, “bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam. Việt Nam luôn xem con người là trung tâm, là động lực của quá trình đổi mới và của công cuộc phát triển kinh tế-xã hội của đất nước” mới là căn cứ, động lực thúc đẩy đất nước đạt được sự phát triển, tiến bộ nói trên, cũng luôn là điều được phát ngôn viên Bộ Ngoại giao khẳng định trước luận điệu vu cáo, sai sự thật của các báo cáo kia.

Phản bác luận điệu của USCIRF về việc thực thi Chỉ thị 78 và tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam

 


Trong Báo cáo tự do tôn giáo 2024, USCIRF đã đưa ra cáo buộc rằng chính quyền Việt Nam đã thực thi Chỉ thị 78 nhằm “tiêu diệt giáo phái Dương Văn Mình”, ép buộc các thành viên phải từ bỏ đức tin, và có những hạn chế khác đối với các nhóm tôn giáo thiểu số. Bài viết này sẽ phân tích và phản bác những cáo buộc này, dựa trên số liệu và ví dụ cụ thể từ thực tế tại Việt Nam.

Chỉ thị 78 của chính quyền Việt Nam không nhằm mục đích "tiêu diệt" giáo phái Dương Văn Mình mà nhằm duy trì trật tự xã hội và bảo vệ quyền lợi của các công dân. Giáo phái Dương Văn Mình đã có những hoạt động tà đạo gây ảnh hưởng đến trật tự công cộng và an ninh quốc gia, bao gồm việc truyền bá mê tín dị đoan và kích động chống đối chính quyền.

Các báo cáo độc lập từ các tổ chức phi chính phủ và các nhà quan sát cho thấy không có bằng chứng cụ thể về việc chính quyền ép buộc các thành viên của giáo phái Dương Văn Mình từ bỏ đức tin của họ. Chính quyền chỉ can thiệp khi các hoạt động tôn giáo vi phạm pháp luật hoặc gây mất trật tự công cộng.

Ví dụ, trong năm 2023, không có trường hợp nào được ghi nhận chính thức về việc bắt giữ hoặc ép buộc từ bỏ đức tin đối với các thành viên giáo phái Dương Văn Mình. Thay vào đó, chính quyền đã tổ chức các buổi đối thoại và tuyên truyền để giải thích cho người dân về các quy định pháp luật liên quan đến tôn giáo và tín ngưỡng.

USCIRF cáo buộc rằng chính quyền Việt Nam ép buộc các dân tộc thiểu số phải sử dụng tiếng Việt trong các hoạt động thờ phụng và văn học tôn giáo. Tuy nhiên, điều này không phản ánh đúng thực tế. Chính quyền Việt Nam luôn tôn trọng quyền sử dụng ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số trong các hoạt động tôn giáo. Các tổ chức tôn giáo tại Việt Nam, bao gồm cả các nhóm tôn giáo thiểu số, được phép sử dụng ngôn ngữ của mình trong các nghi lễ và sinh hoạt tôn giáo. Ví dụ, người Khmer ở miền Tây Nam Bộ vẫn thường xuyên sử dụng tiếng Khmer trong các buổi lễ Phật giáo và các hoạt động cộng đồng.

USCIRF cáo buộc rằng chính quyền Việt Nam hạn chế nhập khẩu các tài liệu tôn giáo được in bằng các bảng chữ cái Hmong đặc biệt. Thực tế cho thấy, chính quyền Việt Nam chỉ kiểm soát việc nhập khẩu các tài liệu tôn giáo để đảm bảo chúng không chứa các nội dung phản động, kích động bạo lực hoặc chia rẽ dân tộc.

Theo báo cáo của Ban Tôn giáo Chính phủ, các tài liệu tôn giáo hợp pháp được nhập khẩu và phân phối một cách bình thường. Ví dụ, trong năm 2023, hàng ngàn bản Kinh Thánh và các tài liệu tôn giáo khác đã được nhập khẩu và phân phối cho các cộng đồng tôn giáo trên khắp cả nước, bao gồm cả các vùng có đông đồng bào Hmong sinh sống.

USCIRF cáo buộc rằng vào tháng 11, các nhân viên không mặc đồng phục của chính quyền Việt Nam đã xâm nhập vào một lớp học tiếng Khmer tại một chùa Phật giáo Khmer Krom, tấn công sư trụ trì và hai Phật tử. Tuy nhiên, không có bằng chứng cụ thể và đáng tin cậy nào để xác nhận cáo buộc này. Các chùa Phật giáo Khmer Krom tại Việt Nam được phép tổ chức các lớp học tiếng Khmer và các hoạt động tôn giáo khác. Chính quyền địa phương cũng thường xuyên hỗ trợ các chùa trong việc tổ chức các hoạt động cộng đồng và bảo tồn văn hóa truyền thống. Ví dụ, tại tỉnh Trà Vinh, chính quyền đã hỗ trợ kinh phí và điều kiện vật chất cho nhiều chùa Khmer Krom trong việc tu sửa và xây dựng các công trình tôn giáo. Các lớp học tiếng Khmer tại các chùa này vẫn diễn ra bình thường và không gặp bất kỳ sự cố nào liên quan đến sự can thiệp của chính quyền.

Những cáo buộc của USCIRF về việc chính quyền Việt Nam thực thi Chỉ thị 78 nhằm “tiêu diệt giáo phái Dương Văn Minh”, ép buộc các thành viên phải từ bỏ đức tin, và hạn chế ngôn ngữ trong thờ phượng và văn học tôn giáo là thiếu cơ sở và không phản ánh đúng thực tế. Thực tế cho thấy, chính quyền Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tôn giáo của mọi người dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo và bảo vệ quyền lợi của các nhóm tôn giáo thiểu số. Các luận điệu xuyên tạc trong Báo cáo tự do tôn giáo 2024 của USCIRF cần được xem xét và đánh giá lại một cách công bằng và khách quan hơn.

Wednesday, July 10, 2024

Vu cáo trắng trợn của USCIRF

 


USCIRF trong Báo cáo tự do tôn giáo 2024 đã đưa ra những nhận định về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam, đặc biệt là đối với các nhóm thiểu số tôn giáo dân tộc như người Thượng và người H'mông theo đạo Tin lành, Phật tử Khmer Krom, và những người H'mông theo Dương Văn Mình. USCIRF cho rằng chính quyền Việt Nam tiếp tục đàn áp các nhóm này, buộc họ từ bỏ đức tin, bắt giữ và kết án họ với các tội danh như “phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân” và “lợi dụng quyền tự do dân chủ”. Sự vu cáo trắng trợn này là không thể chấp nhận được

USCIRF cho rằng chính quyền Việt Nam tiếp tục đàn áp các nhóm thiểu số tôn giáo dân tộc như người Thượng và người H'mông theo đạo Tin lành, Phật tử Khmer Krom, và những người H'mông theo Dương Văn Mình.

Người Thượng và người H'mông theo đạo Tin lành tại Việt Nam không bị đàn áp như USCIRF cáo buộc. Theo số liệu từ các tổ chức phi chính phủ và các báo cáo độc lập, chính quyền Việt Nam đã công nhận và tạo điều kiện cho nhiều tổ chức tôn giáo của người Thượng và người H'mông hoạt động. Ví dụ, Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) đã có hàng trăm nhà thờ và điểm nhóm được chính quyền công nhận và cấp phép hoạt động, trong đó có nhiều điểm nhóm của người Thượng và người H'mông.

Phật tử Khmer Krom tại Việt Nam cũng được tự do thực hành tôn giáo của mình. Theo báo cáo của Ban Tôn giáo Chính phủ, các chùa Khmer Krom ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ được tự do tổ chức các lễ hội tôn giáo, sinh hoạt tín ngưỡng và giáo dục tôn giáo cho cộng đồng. Chính quyền địa phương cũng đã hỗ trợ kinh phí và điều kiện vật chất cho nhiều chùa Khmer Krom trong việc tu sửa và xây dựng các công trình tôn giáo.

Những người H'mông theo Dương Văn Mình tại Việt Nam cũng được tạo điều kiện để thực hành tín ngưỡng của mình. Tuy nhiên, một số nhóm tôn giáo tự phát có xu hướng lợi dụng tín ngưỡng để kích động chia rẽ, gây mất trật tự xã hội. Chính quyền chỉ can thiệp khi có các hành vi vi phạm pháp luật, không nhằm vào việc đàn áp tôn giáo. Dương Văn Mình đã dụ dỗ và ép buộc người H’Mong thực hiện tà đạo với các hành vi không thể chấp nhận được, không phù hợp phong tục tập quán và tôn giáo tín ngưỡng của họ, nên phải bị xử lý.

USCIRF cáo buộc rằng chính quyền Việt Nam gây áp lực buộc các nhóm thiểu số tôn giáo phải từ bỏ đức tin và gia nhập các tổ chức tôn giáo do nhà nước kiểm soát. Tuy nhiên, cáo buộc này không có cơ sở thực tế. Chính quyền Việt Nam đã công nhận và hỗ trợ nhiều tổ chức tôn giáo độc lập. Ví dụ, Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) và Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) là những tổ chức tôn giáo độc lập và được công nhận chính thức. Các tổ chức này được tự do tổ chức các hoạt động tôn giáo, sinh hoạt tín ngưỡng và đào tạo chức sắc tôn giáo mà không bị ép buộc phải gia nhập các tổ chức tôn giáo do nhà nước kiểm soát. Trong năm 2023, Nhà nước đã công nhận 38 tổ chức tôn giáo, cấp đăng ký hoạt động tôn giáo cho 2 tổ chức và 1 pháp môn tu hành thuộc 16 tôn giáo; hàng ngàn điểm nhóm được chính quyền địa phương cấp đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung, trong đó có hơn 60 điểm nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam. Riêng đạo Tin lành, từ năm 2021 - 2023 khu vực miền núi phía Bắc chấp thuận thêm 170 điểm nhóm, 6 tổ chức tôn giáo trực thuộc; 5 tỉnh Tây Nguyên chấp thuận 11 tổ chức tôn giáo trực thuộc từ các điểm nhóm đã được đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung trước đó.

USCIRF cáo buộc rằng chính quyền Việt Nam can thiệp vào việc bổ nhiệm lãnh đạo tôn giáo, tịch thu các di vật tôn giáo và hạn chế việc tiếp cận các cơ sở thờ tự. Tuy nhiên, các cáo buộc này không phản ánh đúng thực tế tại Việt Nam. Việc bổ nhiệm lãnh đạo tôn giáo tại Việt Nam được thực hiện theo quy định của từng tổ chức tôn giáo và không có sự can thiệp từ phía chính quyền. Các tổ chức tôn giáo tự do lựa chọn và bổ nhiệm lãnh đạo của mình theo quy định nội bộ và truyền thống tôn giáo. Chính quyền chỉ có vai trò đảm bảo các quy trình này tuân thủ pháp luật và không gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự.

Theo báo cáo của Ban Tôn giáo Chính phủ, từ năm 2018 đến năm 2023, đã có hàng trăm tổ chức tôn giáo và điểm nhóm tôn giáo được công nhận và cấp phép hoạt động. Ví dụ, Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) có hơn 1,000 nhà thờ và điểm nhóm được công nhận, trong đó có nhiều điểm nhóm của người Thượng và người H'mông. Các chùa Khmer Krom tại các tỉnh miền Tây Nam Bộ cũng được chính quyền hỗ trợ kinh phí và điều kiện vật chất để tu sửa và xây dựng các công trình tôn giáo.

Những cáo buộc của USCIRF về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam là thiếu cơ sở và không phản ánh đúng thực tế. Thực tế cho thấy chính quyền Việt Nam đã và đang nỗ lực bảo vệ và thúc đẩy quyền tự do tôn giáo của mọi người dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo và bảo vệ quyền lợi của các nhóm tôn giáo thiểu số. Những luận điệu xuyên tạc trong Báo cáo tự do tôn giáo 2024 của USCIRF cần được xem xét và đánh giá lại một cách công bằng và khách quan hơn.

Monday, July 8, 2024

Khuyến nghị vô lối của USCIRF

 


Trong Báo cáo tự do tôn giáo 2024, USCIRF tiếp tục đề nghị Bộ Ngoại giao Mỹ đưa Việt Nam trở lại danh sách "Countries of Particular Concern" (CPC - Cần quan tâm đặc biệt về tôn giáo) cùng với 16 quốc gia khác như Trung Quốc, Cuba, Nga, Ả Rập Saudi, Nigeria... với lý do rằng trong năm 2023, tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam không có nhiều thay đổi so với năm trước, và tiếp tục cáo buộc chính quyền Việt Nam đàn áp các cộng đồng tôn giáo độc lập, duy trì các tổ chức tôn giáo do nhà nước kiểm soát và can thiệp vào việc bổ nhiệm lãnh đạo tôn giáo. Luận điệu này hết sức nhàm chán và cũ rích, cũng như cái danh sách các nước kia cứ lặp đi lặp lại qua từng năm vậy.

USCIRF cáo buộc rằng trong năm 2023, chính quyền Việt Nam tiếp tục đàn áp các cộng đồng tôn giáo độc lập, nhiều trong số đó bị gắn mác là “tôn giáo lạ, giả, hoặc dị giáo” vì không tuân thủ sự kiểm soát của nhà nước. Tuy nhiên, các cáo buộc này không có cơ sở thực tế và không phản ánh đúng tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam.

USCIRF cáo buộc rằng chính quyền Việt Nam gây áp lực buộc các nhóm tôn giáo độc lập phải gia nhập các tổ chức tôn giáo do nhà nước kiểm soát như Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Hội đồng Cao Đài 1997, Ban Trị sự Phật giáo Hòa Hảo, và Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam). Tuy nhiên, thực tế cho thấy các nhóm tôn giáo độc lập tại Việt Nam vẫn có thể hoạt động bình thường nếu tuân thủ các quy định pháp luật của nhà nước.

Các nhóm tôn giáo độc lập tại Việt Nam không bị ép buộc phải gia nhập các tổ chức tôn giáo do nhà nước kiểm soát. Thực tế cho thấy nhiều nhóm tôn giáo độc lập vẫn hoạt động bình thường và được bảo vệ quyền lợi hợp pháp. Chính quyền Việt Nam không can thiệp vào hoạt động nội bộ của các tổ chức tôn giáo, miễn là các hoạt động này tuân thủ pháp luật và không gây ảnh hưởng xấu đến trật tự công cộng và an ninh quốc gia.

USCIRF cáo buộc rằng chính quyền Việt Nam can thiệp vào việc bổ nhiệm lãnh đạo tôn giáo, tịch thu các di vật tôn giáo và hạn chế việc tiếp cận các cơ sở thờ tự. Tuy nhiên, các cáo buộc này không phản ánh đúng thực tế tại Việt Nam.

Việc bổ nhiệm lãnh đạo tôn giáo tại Việt Nam được thực hiện theo quy định của từng tổ chức tôn giáo và không có sự can thiệp từ phía chính quyền. Các tổ chức tôn giáo tự do lựa chọn và bổ nhiệm lãnh đạo của mình theo quy định nội bộ và truyền thống tôn giáo. Chính quyền chỉ có vai trò đảm bảo các quy trình này tuân thủ pháp luật và không gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự.

Chính quyền Việt Nam luôn coi trọng việc bảo vệ các di vật tôn giáo và di sản văn hóa của các tôn giáo. Việc tịch thu các di vật tôn giáo chỉ xảy ra trong trường hợp các di vật này được sử dụng sai mục đích hoặc vi phạm pháp luật. Các cơ sở thờ tự và di sản văn hóa tôn giáo đều được bảo vệ và bảo tồn theo quy định của pháp luật.

Chính quyền Việt Nam không hạn chế việc tiếp cận các cơ sở thờ tự của các tổ chức tôn giáo. Các cơ sở thờ tự đều được mở cửa cho các tín đồ và khách tham quan, và các hoạt động tôn giáo tại các cơ sở này đều được diễn ra bình thường. Chính quyền chỉ can thiệp trong trường hợp các hoạt động tôn giáo gây ảnh hưởng đến trật tự công cộng hoặc vi phạm pháp luật.

Chính quyền Việt Nam luôn sẵn sàng đối thoại và hợp tác với các tổ chức quốc tế về vấn đề tự do tôn giáo. Việt Nam đã tham gia nhiều cuộc đối thoại nhân quyền với các quốc gia và tổ chức quốc tế, trong đó có Mỹ. Điều này cho thấy sự cởi mở và sẵn sàng hợp tác của Việt Nam trong việc đảm bảo quyền tự do tôn giáo.

Chính quyền Việt Nam luôn chú trọng bảo vệ quyền lợi của các nhóm tôn giáo thiểu số. Các chính sách và chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội cho các khu vực có đông đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có các nhóm tôn giáo thiểu số, đã giúp cải thiện đời sống của người dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo.

Thực tế cho thấy Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tôn giáo của người dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo hợp pháp và ngăn chặn các hành vi lợi dụng tôn giáo để gây rối trật tự công cộng. Việc Bộ Ngoại giao Mỹ không chỉ định Việt Nam là CPC cho thấy sự ghi nhận những tiến bộ của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền tự do tôn giáo. Báo cáo của USCIRF mang tính phiến diện và thiếu khách quan.

Friday, July 5, 2024

Những cáo buộc của USCIRF thiếu cơ sở và không đúng thực tế

 


Trong trang 8 Báo cáo tự do tôn giáo 2024 của USCIRF cho rằng Bộ Ngoại giao Mỹ đã không chỉ định Việt Nam là một "Quốc gia cần quan tâm đặc biệt" (CPC) mặc dù có khuyến nghị từ USCIRF, dựa trên những cáo buộc về vi phạm nghiêm trọng tự do tôn giáo. Sự thật có như thế không?

USCIRF cho rằng Việt Nam vi phạm nghiêm trọng tự do tôn giáo và đề nghị Bộ Ngoại giao Mỹ chỉ định Việt Nam là CPC từ năm 2002. Tuy nhiên, những cáo buộc này thiếu cơ sở thực tế và không phản ánh đúng tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam.

Luật Tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam, ban hành năm 2018, là một văn bản pháp luật tiến bộ, bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người dân. Luật này quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức tôn giáo, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo hợp pháp và đảm bảo trật tự xã hội. Việc áp dụng luật này không nhằm đàn áp các nhóm tôn giáo mà để bảo vệ quyền lợi của người dân và đảm bảo an ninh quốc gia.

Chính quyền Việt Nam đã công nhận và tạo điều kiện cho nhiều tổ chức tôn giáo hoạt động. Các tôn giáo lớn như Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao Đài, Hòa Hảo đều được công nhận và có nhiều hoạt động tôn giáo phong phú. Chính phủ cũng hỗ trợ việc xây dựng các cơ sở thờ tự, tổ chức các lễ hội tôn giáo và hoạt động từ thiện.

Các nhóm tôn giáo thiểu số tại Việt Nam, bao gồm người Chăm theo đạo Hồi, người Khmer theo đạo Phật Nam Tông, và các cộng đồng tôn giáo khác, đều được tạo điều kiện hoạt động và phát triển. Chính quyền địa phương thường xuyên hỗ trợ và phối hợp với các tổ chức tôn giáo thiểu số để tổ chức các hoạt động văn hóa, lễ hội truyền thống và bảo tồn di sản văn hóa tôn giáo.

USCIRF cho rằng Việt Nam vi phạm nghiêm trọng tự do tôn giáo, nhưng không cung cấp các bằng chứng cụ thể và đáng tin cậy. Trái lại, nhiều báo cáo từ các tổ chức quốc tế khác và các quốc gia đã ghi nhận những tiến bộ của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền tự do tôn giáo. Việc không chỉ định Việt Nam là CPC của Bộ Ngoại giao Mỹ phản ánh sự ghi nhận những tiến bộ này.

USCIRF thường dựa trên một số trường hợp cụ thể để làm bằng chứng cho các cáo buộc của mình. Tuy nhiên, nhiều trường hợp này không phản ánh toàn diện tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam. Ví dụ, một số trường hợp cá nhân bị bắt giữ hoặc xét xử không phải vì lý do tôn giáo mà vì các hành vi vi phạm pháp luật khác, như gây rối trật tự công cộng hoặc lợi dụng tôn giáo để hoạt động chính trị trái phép.

Chính quyền Việt Nam luôn có chính sách nhất quán trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tôn giáo của người dân. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được xây dựng trên cơ sở tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của mọi người dân, đồng thời đảm bảo trật tự xã hội và an ninh quốc gia. Chính sách này đã được thực hiện một cách minh bạch và công bằng, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo hợp pháp.

Những cáo buộc của USCIRF về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam là thiếu cơ sở và không phản ánh đúng thực tế. Thực tế cho thấy Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tôn giáo của người dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo hợp pháp và ngăn chặn các hành vi lợi dụng tôn giáo để gây rối trật tự công cộng. Chính quyền Việt Nam luôn sẵn sàng đối thoại và hợp tác với các tổ chức quốc tế về vấn đề tự do tôn giáo, đồng thời thực hiện nhiều biện pháp nhằm bảo vệ quyền lợi của các nhóm tôn giáo thiểu số.

Việc Bộ Ngoại giao Mỹ không chỉ định Việt Nam là CPC cho thấy sự ghi nhận những tiến bộ của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền tự do tôn giáo. Báo cáo của USCIRF mang tính phiến diện và thiếu khách quan, cần được xem xét một cách cẩn trọng và công bằng hơn. Việt Nam cam kết tiếp tục bảo vệ và thúc đẩy quyền tự do tôn giáo của mọi người dân, đồng thời hợp tác chặt chẽ với cộng đồng quốc tế để đảm bảo các quyền này được thực thi một cách đầy đủ và hiệu quả.

Tuesday, July 2, 2024

Các luận điệu xuyên tạc trong Báo cáo tự do tôn giáo 2024 của USCIRF về Việt Nam

 


Ngày 1-5-2024, Ủy hội Tự do tôn giáo quốc tế Mỹ (USCIRF) đã công bố Báo cáo tự do tôn giáo 2024, trong đó đưa ra những nhận định sai lệch và thiếu khách quan về tình hình tôn giáo ở Việt Nam. Báo cáo này cho rằng tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam năm 2023 "không có gì thay đổi" so với năm 2022 và cáo buộc chính quyền sử dụng Luật Tín ngưỡng, tôn giáo để đàn áp các nhóm tôn giáo thiểu số và không được công nhận. Bài viết này sẽ phân tích và phản bác các luận điệu xuyên tạc trong báo cáo của USCIRF.


USCIRF cáo buộc rằng tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam không có gì thay đổi trong năm 2023, tuy nhiên, thực tế cho thấy Việt Nam đã có nhiều cải thiện đáng kể trong việc bảo vệ quyền tự do tôn giáo. Chính phủ Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm đảm bảo quyền tự do tôn giáo của người dân, bao gồm việc ban hành và thực thi Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2018, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo hợp pháp.

Báo cáo của USCIRF cho rằng chính quyền Việt Nam sử dụng Luật Tín ngưỡng, tôn giáo để đàn áp các nhóm tôn giáo thiểu số và không được công nhận. Tuy nhiên, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam được xây dựng dựa trên cơ sở tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người dân, đồng thời đảm bảo trật tự xã hội và an ninh quốc gia. Luật này quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức tôn giáo, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo hợp pháp và ngăn chặn các hành vi lợi dụng tôn giáo để gây rối trật tự công cộng.

Báo cáo của USCIRF cho rằng chính quyền Việt Nam đàn áp các nhóm tôn giáo thiểu số và không được công nhận. Tuy nhiên, thực tế cho thấy các nhóm tôn giáo thiểu số ở Việt Nam được tạo điều kiện thuận lợi để hoạt động và phát triển. Các tổ chức tôn giáo như Công giáo, Phật giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, Tin Lành đều được chính quyền tạo điều kiện để tổ chức các hoạt động tôn giáo, xây dựng cơ sở thờ tự và tham gia các hoạt động xã hội.

Trong năm 2023, Việt Nam đã công nhận thêm nhiều tổ chức tôn giáo mới, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhóm tôn giáo hoạt động. Điều này cho thấy chính quyền Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tôn giáo của người dân, không có sự đàn áp như USCIRF cáo buộc.

Chính quyền Việt Nam luôn sẵn sàng đối thoại và hợp tác với các tổ chức quốc tế về vấn đề tự do tôn giáo. Việt Nam đã tham gia nhiều cuộc đối thoại nhân quyền với các quốc gia và tổ chức quốc tế, trong đó có Mỹ. Điều này cho thấy sự cởi mở và sẵn sàng hợp tác của Việt Nam trong việc đảm bảo quyền tự do tôn giáo.

Chính quyền Việt Nam luôn chú trọng bảo vệ quyền lợi của các nhóm tôn giáo thiểu số. Các chính sách và chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội cho các khu vực có đông đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có các nhóm tôn giáo thiểu số, đã giúp cải thiện đời sống của người dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo.

Những cáo buộc của USCIRF về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam là không có cơ sở và thiếu khách quan. Thực tế cho thấy Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tôn giáo của người dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo hợp pháp và ngăn chặn các hành vi lợi dụng tôn giáo để gây rối trật tự công cộng. Chính quyền Việt Nam luôn sẵn sàng đối thoại và hợp tác với các tổ chức quốc tế về vấn đề tự do tôn giáo, đồng thời thực hiện nhiều biện pháp nhằm bảo vệ quyền lợi của các nhóm tôn giáo thiểu số.

Sunday, June 30, 2024

Điệp khúc của Bộ Ngoại giao Mỹ vẫn theo kiểu “bình cũ rượu mới”

 


Điệp khúc báo cáo thường niên về tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam do một số quan chức Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ năm 2023 vẫn theo kiểu “bình cũ rượu mới” bởi lối tư duy và phong cách sự diễn đạt vẫn như xưa. Mở đầu báo cáo vẫn là mấy lời khen cho có vẻ mang tính khách quan, rằng “gần đây Việt Nam đã đạt một số tiến bộ trong bảo vệ và thúc đẩy tự do tôn giáo, tín ngưỡng”, “đời sống của giáo dân dễ thở hơn”, xong rồi lại dẫn dắt “vẫn còn nhiều rào cản trong thực hiện quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng”, rằng “quyền con người chưa được bảo đảm, nhất là quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng giữa các tôn giáo”.  

Đây là “chiêu trò mới, cách nhìn cũ” bởi từng câu, từng dòng trong báo cáo hàm chứa tính thiên kiến, rất thiếu khách quan, nếu không nói là áp đặt chủ quan, hoàn toàn xa rời thực tế, thiếu chính xác, không có cơ sở khoa học vì nội dung bản báo cáo ấy chẳng được kiểm chứng nên độ chính xác bằng “không”. Vậy nên, bà Phạm Thu Hằng – người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam cho rằng, Việt Nam rất tôn trọng và luôn có thiện chí với mong muốn đóng góp, thúc đẩy sự phát triển mối quan hệ Đối tác Chiến lược toàn diện Việt Nam – Mỹ vì lợi ích của hai nước, hai dân tộc. Vì vậy, “Việt Nam sẵn sàng trao đổi với phía Mỹ về các vấn đề mà hai bên cùng quan tâm trên tinh thần thẳng thắn, cởi mở và tôn trọng lẫn nhau về những vấn đề còn khác biệt” để cùng tháo gỡ khó khăn vì lợi ích của nhân dân hai nước, hai dân tộc.

Là người trong cuộc, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam khẳng định, cùng với những thành tựu to lớn, có ý nhĩa lịch sử gần 40 năm đổi mới đất nước, thể hiện ở sự “thay da đổi thịt” về mọi mặt đời sống xã hội. Trong đó, tự do tôn giáo, tín ngưỡng và mọi hoạt động của các tổ chức tôn giáo đều đã và đang khởi sắc, luôn được Nhà nước Việt Nam quan tâm, bảo đảm và thực hiện đúng các điều khoản đã hiến định trong Hiến pháp năm 2013, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 và quy định của pháp luật. Điều đó khẳng định rằng, ở “Việt Nam, không có ai bị phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo, tín ngưỡng”, “không bao giờ có đàn áp tôn giáo, tín ngưỡng”.

Đó là sự thật, khách nước ngoài đến thăm quan Việt Nam, nhất là các đoàn cán bộ, nhân viên ngoại giao các nước đã và đang công tác ở Việt Nam, bằng chính mắt mình và sự kiểm chứng thực tế, họ đã thừa nhận tính khách quan của nhận định trên, đưa ra những nhận định, đánh giá tích cực về sự nỗ lực và tính ưu việt của chính sách tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam. Thực tế chứng minh rằng,Đảng, Nhà nước Việt Nam đã, đang thực hiện nhất quán chính sách tự do tôn giáo, tín ngưỡng, tôn trọng và bảo đảm các quyền của con người theo hoặc không theo tôn giáo, bảo đảm sự bình đẳng giữa các tôn giáo bằng pháp luật.

Sau Báo cáo quốc gia của Việt Nam tại Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc tại Geneva, Thụy Sĩ, tháng 5-2024, nhiều ý kiến của đại biểu các nước tại buổi tọa đàm đã đánh giá cao tính hiện thực của chính sách và thành tựu của Việt Nam trong bảo đảm tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng và bảo đảm quyền con người, nhất là quyền của phụ nữ, quyền của nhóm đồng tính, song tính và chuyển giới, quyền của người dân tộc thiểu số, những người sinh sống ở vùng sâu, vùng xa.

Tham khảo ý kiến nhận xét của Giáo hoàng Francis và Thủ tướng Tòa thánh, Hồng y Pietro Parolin, khi làm việc với lãnh đạo Việt Nam năm 2023, cho thấy Giáo hoàng và Thủ tướng Tòa thánh đã đánh giá cao những cố gắng của Việt Nam. Họ đã ghi nhận sự phát triển tích cực của đời sống tôn giáo, tín ngưỡng tại Việt Nam, nhất là hoạt động của Giáo hội Công giáo Việt Nam khi “đồng hành cùng dân tộc”, sống tốt đời, đẹp đạo, có đóng góp tích cực vào sự công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và hoạt động của Giáo hội, cuộc sống của giáo dân.

3. Dấu ấn nổi bật trong thực hiện quyền con người đáng ghi nhận là Việt Nam – một trong những quốc gia có kết nối internet và hệ thống công nghệ viễn thông hiện đại với độ phổ cập cao trong khu vực và trên thế giới. Tính đến quý 3 năm 2023, có 78 triệu người Việt Nam sử dụng internet, khoảng 72.000 hội hoạt động ở Việt Nam thường xuyên tham gia xử lý các vấn đề kinh tế, xã hội quan trọng của đất nước. Thử hỏi công dân ở nhiều nước được coi là phát triển có được thụ hưởng cái quyền ấy không.

Rõ ràng, quyền sống, quyền được tôn trọng nhân phẩm và sự toàn vẹn về thể chất là điểm sáng về sự nỗ lực đảm bảo quyền con người ở Việt Nam. Đó là sự thật, khách quan. Cùng với đó, Việt Nam luôn chủ động, tích cực và có nhiều đóng góp đáng trân trọng trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy, khi Việt Nam ứng cử tham gia thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025 đã đạt sự tín nhiệm và tỷ lệ phiếu đồng thuận rất cao.

Dư luận mong mỏi các quan chức Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cần có cái nhìn mới, thật sự công tâm, khách quan, nên chấm dứt ngay những nhận định, đánh giá áp đặt và không chính xác về tình hình nhân quyền và tự do tín ngưỡng tại Việt Nam. Đó là cách tốt nhất để góp phần thúc đẩy sự phát triển mối quan hệ Đối tác Chiến lược toàn diện Việt Nam – Mỹ vì lợi ích của hai nước, hai dân tộc. Nhân dân Việt Nam không hy sinh xương máu, ra sức đánh đuổi quân xâm lược

Friday, June 28, 2024

Báo cáo Tự do Tôn giáo của Hoa Kỳ bị Trung Quốc lên án mang “logic bá quyền”

 

Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vừa công bố Báo cáo Tự do Tôn giáo Quốc tế năm 2023. Đây là Báo cáo Tự do Tôn giáo Quốc tế lần thứ 25 do Hoa Kỳ ban hành kể từ năm 1999. Như thường lệ, Hoa Kỳ đã chỉ đích danh một số quốc gia cần đặc biệt chú ý và giám sát. Việc làm này đã bị Trung Quốc công khai chỉ trích “mục đích thực sự là nêu tên và bêu xấu hoặc thậm chí là vu khống họ trong cộng đồng quốc tế, một lần nữa vạch trần logic bá quyền của nhân quyền theo kiểu Hoa Kỳ” trong bài viết “Báo cáo Tự do Tôn giáo vạch trần logic bá quyền của nhân quyền Hoa Kỳ” đăng trên tờ Global Times ngày 28/6/2024.



Bài viết chỉ đích danh một số bằng chứng vi phạm nhân quyền nghiêm trọng của Hoa Kỳ qua hành xử với Palestine và cuộc xung đột giữa Israel và Palestine:

Về "Mối quan tâm" của Hoa Kỳ đối với nhân quyền của người Hồi giáo thực chất dựa trên hệ tư tưởng và lợi ích quốc gia. Một mặt, chính phủ Hoa Kỳ đã lớn tiếng tuyên bố "viện trợ nhân đạo" của mình cho thường dân Palestine, chẳng hạn như Ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken gần đây đã tuyên bố trong chuyến thăm Trung Đông rằng Hoa Kỳ sẽ cung cấp 404 triệu đô la viện trợ nhân đạo cho thường dân Palestine ở Dải Gaza, Bờ Tây và các khu vực xung quanh, nhằm định hình hình ảnh nhân quyền quốc tế "vinh quang" và "cao quý" của riêng mình. Mặt khác, kể từ khi nổ ra các cuộc xung đột mới giữa Israel và Palestine vào tháng 10 năm ngoái, chính phủ Hoa Kỳ đã tăng cường lực lượng quân sự ở Trung Đông và cung cấp một lượng lớn viện trợ quân sự. Ngoài ra, nước này còn nhiều lần cản trở các nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc về tình hình ở Israel và Palestine, làm suy yếu các nỗ lực quốc tế nhằm thúc đẩy hòa bình giữa hai bên. Trên thực tế, sự ủng hộ lâu dài của các đồng minh đối với chính phủ Hoa Kỳ là lý do cơ bản khiến vấn đề Palestine vẫn chưa được giải quyết trong nhiều thập kỷ. Những tổn hại về nhân quyền, chẳng hạn như tước đoạt mạng sống, tổn hại sức khỏe, hiếp dâm, mất tích cưỡng bức và di dời, là không thể tính toán được. Chính sách nhân quyền tiêu chuẩn kép của Hoa Kỳ cũng đã tác động đáng kể đến xã hội Hoa Kỳ, với tình hình nhân quyền của người Hồi giáo Hoa Kỳ xấu đi đáng kể trong thời gian gần đây. Những tác động của lệnh cấm người Hồi giáo do cựu tổng thống Donald Trump ban hành vẫn còn được cảm nhận cho đến ngày nay, với "chủ nghĩa bài Hồi giáo" liên tục dẫn đến các hoạt động bạo lực và tội ác thù hận đối với người Hồi giáo Hoa Kỳ. Một cuộc khảo sát năm 2024 của Trung tâm nghiên cứu Pew cho thấy 70 phần trăm người Hồi giáo Hoa Kỳ tin rằng sự phân biệt đối xử với người Hồi giáo đã gia tăng kể từ khi bắt đầu cuộc chiến tranh Israel-Hamas và 53 phần trăm cho biết tin tức về cuộc chiến khiến họ cảm thấy sợ hãi. 

Hoa Kỳ chọn lọc lờ đi hành động của các đồng minh của mình ở Gaza, nhưng lại chỉ trích Trung Quốc về "tội diệt chủng" và "tội ác chống lại loài người" trong Báo cáo về Tự do Tôn giáo Quốc tế năm nay, theo cùng một logic bá quyền. Những lời buộc tội này vượt ra ngoài việc chiếm lấy vị thế đạo đức cao hơn của các chuẩn mực pháp lý quốc tế. Chúng phản ánh quan điểm hẹp hòi của Hoa Kỳ - những hiện tượng như vậy là một phần trong ký ức lịch sử của nhiều người Mỹ trong lịch sử ngắn ngủi 200 năm của Hoa Kỳ. Những nhãn này cũng chứng minh việc Hoa Kỳ sử dụng nhân quyền một cách có chọn lọc như một công cụ dựa trên quyền lực và lợi ích quốc gia.

Về bản chất, chủ nghĩa bá quyền cuối cùng bị Hoa Kỳ thu hẹp thành khuôn khổ chính trị "đồng minh-thù địch": tồn tại mối quan hệ khuất phục thực chất giữa nhà nước bá quyền Hoa Kỳ, với tư cách là lực lượng thống trị, và "các quốc gia theo sau" của nó với tư cách là các thực thể bị khuất phục. Cái gọi là địa vị đồng minh phần lớn đạt được thông qua sự khuất phục này. Bên ngoài phạm vi ảnh hưởng của nhà nước bá quyền, tất cả "những người khác" đều cấu thành kẻ thù thực sự hoặc tiềm tàng. Đối với những "người khác" này, logic của chủ nghĩa bá quyền là loại bỏ họ hoặc biến họ thành "đồng minh" trong khả năng của nó, chính xác hơn là biến họ thành phần phụ, do đó trở thành một phần của hệ thống quốc gia của chính nó. Do đó, logic lý thuyết về nhân quyền theo kiểu Mỹ, khi áp dụng vào các thông lệ quốc tế, dẫn đến sự đồng nhất hóa can thiệp dựa trên logic của riêng nó đối với các quốc gia khác. Theo logic của chủ nghĩa bá quyền, nhân quyền theo kiểu Mỹ vốn có tính chất công cụ, cuối cùng phục vụ cho việc duy trì và củng cố vị thế bá quyền toàn cầu của Hoa Kỳ. 

Bản chất của nhân quyền theo kiểu Hoa Kỳ nằm ở "chủ nghĩa bá quyền". "Nhân quyền cao hơn chủ quyền" sử dụng tính phổ quát của đạo đức để chế ngự tính đặc thù của chính trị và luật pháp, do đó cung cấp sự biện minh về mặt đạo đức cho sự can thiệp "nhân đạo". Đằng sau lý thuyết này, không chỉ các tiêu chuẩn "nhân quyền" do các quốc gia bá quyền đặt ra mà cơ sở đạo đức của chúng cũng được coi là hợp pháp và phổ quát. Sự can thiệp "nhân đạo" dựa trên các lợi thế kinh tế, quân sự và chính trị của một quốc gia bá quyền tự nhiên chiếm vị trí đạo đức cao, để các cường quốc bá quyền có thể can thiệp vào các quốc gia khác dưới vỏ bọc "chủ nghĩa nhân đạo". Sự phân biệt đối xử rộng rãi đối với các nhóm dân tộc thiểu số ở Hoa Kỳ và các tội ác mà Hoa Kỳ gây ra ở Trung Đông và các khu vực khác vi phạm nghiêm trọng chủ quyền và nhân quyền của các quốc gia khác không chỉ phơi bày sự đạo đức giả của các bài phát biểu của Hoa Kỳ mà còn tạo nên sự trớ trêu đối với vai trò của Hoa Kỳ là "cảnh sát nhân quyền" duy nhất của thế giới. Cuối cùng, nhân quyền theo kiểu Hoa Kỳ tồn tại theo một cách nghịch lý: có sự sai lệch giữa bài phát biểu về nhân quyền của Hoa Kỳ và thực tiễn nhân quyền.

Cộng đồng quốc tế nhận thức rõ về logic bá quyền đằng sau câu chuyện nhân quyền của Hoa Kỳ. Mặc dù Hoa Kỳ đã nhiều lần chơi bài tôn giáo và nhân quyền, nhưng khi logic bá quyền nhân quyền của Hoa Kỳ tiếp tục phát triển, họ sẽ chỉ tự kéo mình xuống từng bước khỏi bàn thờ "nhân quyền".

 

Friday, May 24, 2024

Vấn đề tự do bầu cử: Hãy nhìn lại mình trước khi phán xét người khác!



Tháng 4 vừa qua, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa ra một bản báo cáo về tình hình Nhân quyền tại Việt Nam năm 2023. Như mọi khi, bản báo cáo này tiếp tục bóp méo tình hình Nhân quyền ở Việt Nam. Bản báo cáo này cho rằng Việt Nam không có quyền bầu cử tự do và chỉ trích Việt Nam chỉ chấp nhận một đảng phái chính trị duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam.




Bản báo cáo cho rằng, con số 99% cử tri đi bầu cử Đại biểu Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp là một con số khó tin. Nhận định này cũng dễ hiểu, bởi ở Hoa Kỳ, nếu ai không tham gia bầu cử hoặc chậm tham gia bầu cử, Hoa Kỳ coi như cá nhân đó không có quyền công dân. Trong khi đó, các cấp chính quyền từ TƯ đến địa phương ở Việt Nam thậm chí còn cử người đưa hòm phiếu đến tận nhà công dân khi họ không có đủ khả năng đi lại hoặc vì một số lý do khác. Đây là hình ảnh rất đẹp ở Việt Nam, được người dân tán tụng và coi việc bầu cử là quyền tối thượng, thiêng liêng nhất của một công dân. Đó là chưa kể, công dân Việt Nam được bầu cử tự do, lựa chọn ứng viên mình thích mà không cần phụ thuộc vào bất cứ ai, trong khi đó ở Hoa Kỳ chỉ có đại cử tri mới có quyền quyết định ứng viên. Thế nên mới có câu chuyện hơn 60% người dân ủng hộ bà Hillary Clinton, nhưng đại cử tri lại quyết định Donald Trump trở thành Tổng thống Mỹ trong cuộc bầu cử vào năm 2016.


Bản báo cáo lên án Việt Nam không cho phép các phong trào chính trị, Đảng phái chính trị khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều này cho thấy, Hoa Kỳ chưa thực sự tôn trọng Việt Nam, nhân dân Việt Nam và lịch sử dân tộc Việt Nam. Bởi việc Việt Nam chỉ tồn tại 01 Đảng duy nhất là Đảng Cộng sản đó chính là lựa chọn của nhân dân, quá trình chọn lọc của lịch sử dân tộc Việt Nam. Cũng giống như Hoa Kỳ chỉ tồn tại duy nhất 02 Đảng là Đảng Cộng hoà và Đảng Dân chủ thay nhau cầm quyền (mà thực chất tiền thân hai Đảng này là một sau khi được tách ra - Đảng Dân chủ - Cộng hoà), trong khi các Đảng khác chỉ mang tính chất hình thức, thậm chí còn bị hạn chế. Ví dụ như Hoa Kỳ nghiêm cấm các Đảng viên Đảng Cộng sản nhập cư về bản chất là lo ngại sự phát triển của Đảng Cộng sản Hoa Kỳ.


Mặt khác, hai Đảng lớn của Hoa Kỳ cũng "bắt tay" với nhau để gạt bỏ các ứng viên của Đảng thứ ba trong các cuộc bầu cử. Hoa Kỳ tạo ra một Uỷ ban tranh cử tổng thống trên hình thức là một tổ chức phi lợi nhuận, nhưng thực tế thành viên của Uỷ ban này hầu hết là người của 02 Đảng lớn. Uỷ ban này đưa ra quy tắc, ứng viên Tổng thống phải phải đạt 15% sự ủng hộ của người dân trong các cuộc thăm dò mới nhất trước 5 ngày thì mới có đủ tư cách tham gia tranh luận tổng thống. Cuộc tranh luận là cơ hội để ứng viên trình bày quan điểm chính trị, thuyết phục cử tri. Nhưng trên thực tế, ứng viên phe thứ ba sẽ không bao giờ đủ điều kiện để tham gia, ngoại trừ trường hợp hi hữu của tỉ phú Pê-rốt được tham gia tranh luận năm 1992.


Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ thậm chí còn mặt dày phán xét Việt Nam có những rào cản cho phụ nữ tham gia vào chính trị bằng một quan niệm mơ hồ "phụ nữ là người chăm sóc và quản lý gia đình". Đúng là trong văn hoá của người Việt Nam nói riêng và nhiều nước nói chung, phụ nữ thường được gắn với hình ảnh nội trợ. Nhưng trên thực tế, ở Việt Nam rất hiếm trường hợp phụ nữ bị ép buộc phải ở nhà nội trợ, họ đi làm và kiếm tiền, tham gia vào chính trị sòng phẳng với nam giới. Việt Nam cũng có những chính sách, điều luật ngăn chặn các hành vi ngăn cản, hạn chế quyền tham gia chính trị của phụ nữ. Bây giờ thử hỏi ngược lại, tỉ lệ phụ nữ tham gia vào chính trị của Hoa Kỳ là bao nhiêu? Theo thống kê của Liên minh Nghị viện thế giới năm 2019, thì Việt Nam có tới 26,7% là nữ giới tham gia Quốc hội (con số này năm 2021 đã tăng lên hơn 30%), trong khi đó Hoa Kỳ chỉ có 23,6%.


Mà cũng lạ, phạm những người không ra gì lại rất thích phán xét người khác nhỉ?




Tuesday, May 21, 2024

Hoa Kỳ có tư cách gì để đánh giá nhân quyền của quốc gia khác?



Như chúng ta đều biết, Bộ Ngoại giao hoặc cơ quan tương đương sinh ra với vai trò nhằm đại diện cho quốc gia đó để quan hệ với các nước khác hoặc quản lý, hỗ trợ, giúp đỡ các công ty, doanh nghiệp của mình ở nước ngoài. Tuy nhiên với Hoa Kỳ, Bộ Ngoại giao lại có một định nghĩa khác, đó là phán xét và can thiệp nội bộ vào một quốc gia khác.




Hàng năm, Cục Dân chủ, Nhân quyền và Lao động của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ lại đưa ra một bản báo cáo về tình hình nhân quyền, chủ yếu là nhằm vào các quốc gia "nằm ngoài sự kiểm soát" (về mặt lợi ích) của Hoa Kỳ, trong đó có Việt Nam.


Các báo cáo này có điểm chung là đều bóp méo tình hình nhân quyền, khai thác dữ liệu từ các đối tượng, các tổ chức có khuynh hướng khủng bố, chống nhà nước mà không có sự đối chứng với chính quyền sở tại hay với quần chúng nhân dân.


Chẳng hạn, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ liệt kê các đối tượng cho là "những nhà hoạt động nhân quyền" như Lê Hùng Anh, Phan Tất Thành... bị chính quyền Việt Nam bắt và khởi tố để chứng minh Việt Nam vi phạm nhân quyền. Nhưng Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ lại bỏ qua các hành vi vi phạm pháp luật của Bộ luật Hình sự Việt Nam, đã được đưa ra xét xử và tuyên án. Ngoài ra, các đối tượng này gây bức xúc trong nhân dân và được nhân dân Việt Nam đồng tình khi họ bị khởi tố.


Để mà nói về tự do, dân chủ, nhân quyền, Hoa Kỳ không có cửa với Việt Nam. Ở Việt Nam, không có chuyện chỉ vì da đen, lỡ đưa tay vào túi quần mà bị cảnh sát cho ngay kẹo đồng, không có chuyện tấn công, xúc phạm chỉ vì người ta có khuôn mặt Châu Á và càng không có chuyện lâu lâu xuất hiện tay súng trong trường học hay nhà thờ. Việt Nam cũng không "xuất khẩu" dân chủ, nhân quyền tới các quốc gia khác để rồi người dân nước đó mất hẳn quyền cơ bản là quyền được sống.


Theo thống kê, năm 2021 nước Mỹ có gần 700 vụ xả súng, chết 45 nghìn người; 2022 có 600 vụ, chết 40 nghìn người. Theo báo cáo của Stop AAPI Hate thì từ năm 2020 đến 2021 có gần 4000 vụ kỳ thị chủng tộc trên toàn nước Mỹ, có tới 77% là thanh niên da màu trong bị giam giữ trong các nhà tù Mỹ.


Có lẽ Hoa Kỳ cần quan tâm tới tình hình nhân quyền của chính mình trước khi đòi làm "cảnh sát quốc tế". Người Việt Nam có câu "Đời người lắm kẻ ở không, chuyện mình chưa tỏ đã lo chuyện người" hay câu "Catwalk bẻ đôi cũng không biết thì đừng có tỏ ra đi guốc trong bụng người khác".


Sunday, May 19, 2024

Cớ sao Bộ Ngoại giao Mỹ vẫn cứ duy trì báo cáo nhân quyền gây phản ứng?



Đến hẹn lại lên, một tờ sớ dài 64 trang của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ về tình hình nhân quyền tại Việt Nam năm 2023 vẫn không có gì khác so với những năm trước. Không rõ đội ngũ soạn thảo nội dung cho Bộ ngoại giao Hoa Kỳ có đang được trả lương theo đúng năng lực không, chứ với khả năng sáng tạo như vậy, thiết nghĩ Hoa Kỳ nên xem xét lại việc phải nuôi nhân lực ăn hại như vậy.


Tuy vậy, chúng ta nên đánh giá cao các báo cáo về tình hình nhân quyền Việt Nam của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, nó khiến cho người đọc như được xuyên không trở về thời kỳ phong kiến, thần quyền. Bằng một loạt những từ, cụm không ai nghĩ có thể tồn tại ở thời hiện đại, kiểu như: Việt Nam “tước đoạt sinh mạng trái luật”, “tra tấn và đối xử hoặc trừng phạt dã man”...


Chưa cần đi sâu vào chi tiết nội dung của bản báo cáo đã biết những gì mà Hoa Kỳ nêu ra, vẫn là những đánh giá sai về tình hình nhân quyền tại Việt Nam, lấy minh chứng từ những vụ việc vi phạm pháp luật Việt Nam và được tham khảo ý kiến từ những phần tử phản động, vi phạm pháp luật.


Không có gì lạ, ngay cả khi mối quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã nâng cấp lên mức quan hệ cao nhất là Đối tác Chiến lược Toàn diện thì Hoa Kỳ vẫn luôn duy trì cách đánh giá thiếu chính xác về tình hình nhân quyền tại Việt Nam. Bởi đây là cách mà Hoa Kỳ đưa những quốc gia "nằm ngoài sự kiểm soát của mình" vào thế "mặc cả" hoặc biến nó thành công cụ để can thiệp nếu quốc gia đó không đáp ứng được lợi ích, lòng tham của Hoa Kỳ.


Một mối quan hệ bền vững không phải dựa trên sự kiểm soát chỉ để đạt được lợi ích cho riêng mình hay buộc đối phương phải chọn phe, mà cần dựa trên lòng tin, sự tôn trọng, hợp tác và hữu nghị để 02 bên cùng có lợi. Việt Nam đã có quá nhiều mất mát và kinh nghiệm để hiểu điều này mà đúc kết thành triết lý "ngoại giao cây tre" hay "chính sách quốc phòng bốn không".


Những bản báo cáo nhân quyền sai lệch như vậy chỉ làm cho mối quan hệ trở nên xa cách và hoài nghi lẫn nhau. Có một câu danh ngôn của Albert Camus đã từng nói như sau "Don't walk in front of me; I may not follow. Don't walk behind me; I may not lead. Just walk beside me and be my friend" (Đừng đi trước tôi; tôi có thể sẽ không theo. Đừng đi sau tôi; tôi có thể sẽ không dẫn lối. Hãy đi bên cạnh và trở thành bạn của tôi). Có lẽ, đã đến lúc Hoa Kỳ cần thay đổi.


Saturday, April 27, 2024

Bộ Ngoại giao Mỹ nên nhìn lại mình trước khi nói người

 


Ngày 01/4/2024, Bộ Ngoại giao Mỹ đã đưa ra thông cáo báo chí bày tỏ quan ngại về vụ xét xử và tuyên án phạt tù 5 đối tượng người Thượng và người Khmer Krom tại Việt Nam.

Cụ thể, thông cáo của Bộ Ngoại giao Mỹ cho rằng “Chúng tôi dặc biệt quan ngại về việc kết án tù 13 năm đối với ông Y Krếc Byă, người đã cất tiếng nói ôn hòa vì tự do tôn giáo và tín ngưỡng ở Việt Nam. Chúng tôi cũng tiếp tục quan ngại trước các án tù nhiều năm đối với các ông Nay Y Blang, Danh Minh Quang, Thạch Cương và Tô Hoàng Chương vì cổ vũ một cách ôn hòa cho nhân quyền, bao gồm quyền tự do tôn giáo tín ngưỡng ở Việt Nam”. Từ đó, thông cáo đề nghị “Việt Nam tôn trọng các quyền thực hiện tự do bày tỏ ý kiến, lập hội và tôn giáo hoặc tín ngưỡng của cá nhân. Chúng tôi tái khẳng định kêu gọi Chính phủ Việt Nam trả tự do cho tất cả những người đã bị giam giữ bất công”.

Đúng là sự vô lối của Mỹ!

Thông cáo của Bộ Ngoại giao Mỹ mô tả 5 đối tượng bị xét xử là "nhà hoạt động tôn giáo và dân tộc thiểu số", bị bắt giữ và kết án vì "hoạt động ôn hòa". Tuy nhiên, thực tế hoàn toàn khác.

Những người này bị truy tố và kết án vì đã thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam, bao gồm: kích động bạo lực, chống phá chính quyền, gây rối trật tự công cộng, phá hoại chính sách đoàn kết dân tộc. Các hành vi này không liên quan đến hoạt động tôn giáo hay dân tộc thiểu số, mà là hành vi vi phạm pháp luật cần được xử lý nghiêm minh.

Thông cáo của Bộ Ngoại giao Mỹ cho biết 5 đối tượng bị xét xử "không có luật sư bào chữa". Tuy nhiên, thông tin này là sai sự thật. Các bị cáo đều có đầy đủ luật sư bào chữa và được đảm bảo quyền lợi hợp pháp trong quá trình tố tụng.

Thông cáo còn cho rằng phiên tòa diễn ra "thiếu minh bạch", "không công bằng". Tuy nhiên, đây là thông tin bịa đặt. Phiên tòa được tiến hành công khai, đảm bảo đúng quy định của pháp luật, có sự giám sát của các cơ quan chức năng và đại diện các tổ chức xã hội.

Việc Bộ Ngoại giao Mỹ đưa ra thông cáo sai lệch về vụ án này là hành động can thiệp vào nội vụ Việt Nam, vi phạm nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia theo luật pháp quốc tế.

Chính phủ Việt Nam là quốc gia có đầy đủ năng lực và trách nhiệm để giải quyết các vấn đề nội bộ của mình, đảm bảo tuân thủ pháp luật và tôn trọng quyền con người. Việc các nước khác can thiệp vào nội vụ Việt Nam là không chính đáng và không thể chấp nhận được.

Thông cáo báo chí của Bộ Ngoại giao Mỹ về vụ xét xử người Thượng và người Khmer Krom là sai lệch, xuyên tạc thực tế, thể hiện sự thiếu tôn trọng đối với pháp luật và chủ quyền của Việt Nam. Trong bối cảnh quan hệ giữa 2 nước vừa được nâng cấp thì hành xử của Mỹ là không phù hợp, huống gì bản thân nước Mỹ còn nhiều điều tệ hại về phân biệt chủng tộc, sự lộng hành và lạm quyền của cảnh sát.


Friday, April 26, 2024

TỪ VỤ ÁN CỦA Y Krếc Byă: GIỚI ZÂN CHỬI ĐANG ỦNG HỘ CHỦ NGHĨA LY KHAI?

 


Vụ án của Y Krếc Byă (tên thường gọi là Ama Guôn), sinh năm 1978 trú tại Buôn K’nia 2, xã Ea Bar, huyện Buôn Đôn, Đắk Lắk khép lại, những giọt nước mắt muộn mằn của Y Krếc Byă đã rơi tại tòa, gần 50 tuổi nhưng đã 8 năm trong tù và tiếp tục là 13 năm tiếp theo. Không thấy các quan thầy, không thấy những “đồng bọn hàng ngày tung hô với lời lẽ cổ súy, tung hô trên mạng” có mặt chứng kiến, giờ chỉ gia đình, vợ con có mặt, những nét đăm chiêu về tương lai bất định cho gia đình của Y Krếc Byă và đây cũng là cái giá phải trả hoàn toàn xứng đáng. Được nói lời sau cùng, Y Krếc Byă đã nói “...Do bị A Ga dụ dỗ, lừa phỉnh tin theo tổ chức phản động có tên Hội thánh tin lành đấng Christ Tây Nguyên – CHPC nhằm chia rẽ đại đoàn kết dân tộc, chống lại Chính quyền. Mong hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm quay trở về với vợ con, với nương rẫy và với buôn làng...”. Đồng thời khuyên nhủ "...bà con buôn làng gần xa đừng nghe theo lời dụ dỗ ngon ngọt của A Ga, Y Quynh Bdap để rồi nhận lại kết cục như mình"…

Gia đình Y Krếc Byă hoàn cảnh và có lẽ những bóng ma FULRO như A Ga, Y Hin, Y Quynh Bdap sẽ chưa từ bỏ họ, sẽ tiếp tục lợi dụng, lôi kéo gia đình Y Krếc Byă vào “Hội thánh tin lành Đấng Christ Tây Nguyên” để thực hiện các hoạt động phức tạp chỉ để thỏa mãn ảo vọng, mưu đồ chính trị của chúng. Tổ chức “Hội thánh tin lành Đấng Christ Tây Nguyên” không phải phải là một tổ chức hay giáo phái Tin lành, bản chất nó là một tổ chức phản động được dựng lên đội lốt tôn giáo để thực hiện các hoạt động lôi kéo, dụ dỗ biến các đối tượng nhẹ dạ cả tin, ham ăn lười làm tại Tây Nguyên trở thành cánh tay nối dài phục vụ tư tưởng hẹp hòi, ích kỉ của đám FULRO lưu vong do A Ga cầm đầu. Tên A Ga đã liên kết với các tổ chức phản động nước ngoài khác như “Ủy ban cứu trợ người vượt biển” (BPSOS) của Nguyễn Đình Thắng ở Mỹ, nhóm “Người Thượng đứng lên vì công lý” (MSFJ) của Y Quynh Bdăp ở Thái Lan. Mục đích của tổ chức này là lôi kéo, thu nạp người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo để chống phá Nhà nước, đòi thành lập “nhà nước riêng, tôn giáo riêng” cho người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên.

Những năm qua, Nguyễn Đình Thắng, cầm đầu BPSOS cùng tổ chức khủng bố, phản động lưu vong Việt Tân như Nguyễn Văn Đài, Mạng lưới Những người Bảo vệ Nhân quyền VETO cùng các đài BBC, VOA, RFA triệt để liên kết với số FULRO lưu vong A Ga, Y Hin và chỉ đạo số đối tượng trong dân tộc Y Quynh Bdap thuộc tổ chức Người Thượng Vì Công Lý (MSFJ), Vàng Chỉnh Mình (người Mông, ở Điện Biên), Dương Văn Mình (người Mông ở Tuyên Quang) sử dụng chiêu bài dân tộc, tôn giáo để tập hợp lực lượng, kích động người đồng bào dân tộc thiểu số nhẹ dạ, cả tin ở Tây Bắc, Tây Nguyên vượt biên sang Thái Lan vào các khu tị nạn với hứa hẹn cho đi Mỹ định cư. Nhưng khi các gia đình này đến nơi thì bị ép buộc phải trả lời phỏng vấn xuyên tạc tình hình chính trị, xã hội trong nước, đến các diễn đàn quốc tế làm chứng cho các “vi phạm nhân quyền, phân biệt đối xử, tự do tôn giáo” của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Với chiêu bài này chúng đã lôi kéo được hàng trăm gia đình người dân tộc Mông và Tây Nguyên vượt biên trái phép với giấc mơ đổi đời nhưng đến mới thấy không đúng như những lời tô vẽ của chúng, nhiều gia đình đã trắng tay và tìm đường trở về Việt Nam.

Đứng sau các hoạt động trên của các đối tượng mưu đồ nhằm lật đổ chế độ cộng sản ở Việt Nam, vấn đề dân tộc, tôn giáo cũng chỉ là các chiêu bài được chúng lợi dụng vào mục tiêu chính trị đen tối nhằm làm suy yếu, hướng Việt Nam theo quỹ đạo của các quan thầy của chúng. Để thực hiện mưu đồ chúng không ngại kích động các đối tượng trong nước thực hiện bạo lực, khủng bố, ly khai, bạo loạn.

Việc đưa ra các lý lẽ rằng Y Krếc Byă là người dân tộc thiểu số học vấn thấp hay chỉ vì hoạt động tôn giáo mà bị bắt chỉ là màn ngụy biện che đậy bản chất chống phá. Việc bất chấp dư luận, pháp luật để bênh vực cho Y Krếc Byă và “Hội thánh tin lành Đấng Christ Tây Nguyên” chỉ càng làm lộ rõ mưu đồ lợi dụng tôn giáo để kích động ly khai của các tổ chức chống Việt Nam./.

Thursday, April 25, 2024

Thấy gì từ một bức thư xin Ngoại trưởng Mỹ can thiệp trả tự cho kẻ chống phá đất nước?

 

Ngày 13/4/2024, BPSOS cùng 35 tổ chức và 332 cá nhân đã gửi thư cho Ngoại trưởng Mỹ, nêu ra một số thông tin sai lệch về tình hình tôn giáo ở Việt Nam và đưa ra 4 khuyến nghị mang tính can thiệp công việc nội bộ của Việt Nam như sau:

1. Kêu gọi nhà nước Việt Nam chỉ thị các cấp chính quyền địa phương, huyện và tỉnh phải ngưng ngay chính sách ép tín đồ Tin Lành người Hmong bỏ đạo và phải tôn trọng quyền hành đạo tại tư gia của các tín đồ Thiên Chúa Giáo người Tây Nguyên.

2. Tu chính điều 116 (phá hoại chính sách dại đoàn kết)  và điều 331 (lợi dụng các quyền tự do dân chủ) của bộ luật hình sự để tuân thủ các công ước Liên Hiệp Quốc mà Việt Nam đã ký kết.

3. Trả tự do ngay và vô điều kiện cho các tù nhân lương tâm và tôn giáo.

4. Ngưng mọi hành vi đàn áp xuyên quốc gia nhắm vào các người bảo vệ nhân quyền ở ngoài Việt Nam.

Về các vụ việc được nêu:

  • Vụ xét xử Y Krech Byă: Y Krech Byă bị truy tố vì tội "lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam", chứ không phải vì lý do tôn giáo. Các hành vi của Y Krech Byă vi phạm pháp luật Việt Nam, gây nguy hại cho an ninh quốc gia, trật tự xã hội, không liên quan đến quyền tự do tín ngưỡng.
  • Vụ truy tố Aga: Aga bị truy tố vì tội "phản động chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam", không phải vì lý do tôn giáo. Các hoạt động của Aga nhằm lật đổ chính quyền, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, vi phạm pháp luật Việt Nam, không liên quan đến quyền tự do tín ngưỡng.

Về 4 khuyến nghị:

  • Khuyến nghị 1: Việt Nam đã ban hành và thực thi đầy đủ các quy định pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không có chính sách nào "ép tín đồ Tin Lành người Hmong bỏ đạo" hay hạn chế quyền hành đạo tại tư gia của các tín đồ Thiên Chúa Giáo người Tây Nguyên. Các trường hợp vi phạm pháp luật đều được xử lý theo quy định, không liên quan đến vấn đề tôn giáo.
  • Khuyến nghị 2: Điều 116 và Điều 331 Bộ luật Hình sự Việt Nam được xây dựng phù hợp với Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác, đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự xã hội và quyền tự do dân chủ của công dân. Việc sửa đổi luật phải được thực hiện theo quy trình thủ tục嚴謹, đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp.
  • Khuyến nghị 3: Việt Nam không giam giữ bất kỳ ai vì lý do tôn giáo. Các trường hợp bị bắt giữ, truy tố đều vi phạm pháp luật Việt Nam, không liên quan đến quyền tự do tín ngưỡng.
  • Khuyến nghị 4: Việt Nam tôn trọng và bảo vệ quyền tự do ngôn luận, quyền hoạt động của các tổ chức phi chính phủ. Tuy nhiên, các hoạt động chống phá Nhà nước, vi phạm pháp luật sẽ bị xử lý theo quy định.

Có thể thấy được rằng, những tổ chức phản động lưu vong như BPSOS, Việt tân chính là cánh tay nối dài của thế lực thù địch, là kẻ tiếp tay, tiếp sức, tiếp đạn cho các thế lực thù địch khai thác, lợi dụng để đạt ý đồ đen tối, ảo tưởng. Chúng suy diễn ra đủ trò làm cái cớ để viết loại "tâm thư" này hòng gây nhiễu dư luận, bôi lem chính thể, cung cấp "nguyên liệu" (kể cả già hoặc sai sự thật) cho chính giới các nước sinh ra ác cảm, thiếu thiện chí với Việt Nam

Bức thư của BPSOS có nhiều thông tin sai lệch, xuyên tạc tình hình tôn giáo tại Việt Nam, nhằm mục đích gây chia rẽ, phá hoại sự đoàn kết của dân tộc Việt Nam và làm tổn hại đến uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Cần lên án mạnh mẽ những hành vi xuyên tạc, vu khống này và khẳng định sự tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam.


 

Khôi hài cái gọi là "thư chung" cầu viện ngoại bang!

 Bản chất những kẻ vong nô, phản quốc thời nào cũng giống nhau ở một điểm: đó là cầu viện ngoại bang dùng sức mạnh (vũ trang hoặc ảnh hưởng) để can thiệp vào đất nước mình. Nếu thời xưa có Nguyễn Ánh hay Trần Ích Tắc cầu viện ngoại bang đem quân nước ngoài về tranh giành quyền lực cho bản thân, gia đình, phe phái, còn gọi là "cõng rắn cắn gà nhà", thì nay là màn viết thư, viết báo cáo bôi nhọ chính thể trong nước và cầu xin nước ngoài gây sức ép can thiệp vào luật pháp Việt Nam

Chẳng hạn như cái gọi là thư chung đã được chuyển đến Ngoại Trưởng Antony Blinken trước khi ông này cùng phái đoàn Hoa Kỳ đến Việt Nam; nội dung bức thư nêu lên “những vụ đàn áp tôn giáo gần đây” và đề ra một số khuyến nghị cụ thể. Bức thư do BPSOS khởi xướng được ký tên bởi “35 tổ chức quốc tế cũng như của người Việt ở hải ngoại và trong nước và 332 cá nhân”, nêu lên một số vụ việc mà bị cho là đàn áp tôn giáo ở Việt Nam như vụ xét xử Y Krech Byă mới đây hay truy tố Aga, kẻ phản động lưu vong đang trốn ở nước ngoài. Từ đó, bức thư này nêu 4 “khuyến nghị” với ngoại trưởng Mỹ khi đến Việt Nam, là:

1. Kêu gọi nhà nước Việt Nam chỉ thị các cấp chính quyền địa phương, huyện và tỉnh phải ngưng ngay chính sách ép tín đồ Tin Lành người Hmong bỏ đạo và phải tôn trọng quyền hành đạo tại tư gia của các tín đồ Thiên Chúa Giáo người Tây Nguyên.

2. Tu chính điều 116 (phá hoại chính sách dại đoàn kết)  và điều 331 (lợi dụng các quyền tự do dân chủ) của bộ luật hình sự để tuân thủ các công ước Liên Hiệp Quốc mà Việt Nam đã ký kết.

3. Trả tự do ngay và vô điều kiện cho các tù nhân lương tâm và tôn giáo.

4. Ngưng mọi hành vi đàn áp xuyên quốc gia nhắm vào các người bảo vệ nhân quyền ở ngoài Việt Nam.

Đúng là trò hề!

Bức thư cáo buộc chính phủ Việt Nam đàn áp các tổ chức tôn giáo, hạn chế quyền tự do tín ngưỡng của người dân. Tuy nhiên, thực tế hoàn toàn ngược lại. Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, với hơn 18 triệu người theo đạo, chiếm 18% dân số. Hiến pháp và pháp luật Việt Nam quy định rõ ràng về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Nhà nước tôn trọng và bảo vệ mọi tín ngưỡng, tôn giáo, không phân biệt đối xử tôn giáo. Các tổ chức tôn giáo được hoạt động bình đẳng, hợp pháp theo quy định của pháp luật.

Bức thư cho rằng chính phủ Việt Nam đàn áp các tín đồ Tin lành Miền núi, bắt bớ, giam giữ và tra tấn họ. Đây là thông tin hoàn toàn bịa đặt. Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của người dân, không phân biệt đối xử với bất kỳ ai based on tôn giáo. Các trường hợp vi phạm pháp luật đều được xử lý theo quy định, không liên quan đến vấn đề tôn giáo.

Bức thư cáo buộc chính phủ Việt Nam hạn chế hoạt động của các tổ chức tôn giáo, kiểm soát chặt chẽ các hoạt động truyền giáo và sinh hoạt tôn giáo. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, các tổ chức tôn giáo được hoạt động bình thường theo quy định của pháp luật. Các hoạt động truyền giáo và sinh hoạt tôn giáo được diễn ra tự do, không bị hạn chế.

Bức thư cho rằng chính phủ Việt Nam đang xóa bỏ các biểu tượng tôn giáo, phá hủy các nhà thờ, đền chùa. Đây là thông tin hoàn toàn sai lệch. Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ các di tích lịch sử, văn hóa, bao gồm cả di tích tôn giáo. Các nhà thờ, đền chùa được bảo tồn và tôn tạo theo quy định, không bị phá hủy.

Những thông tin trong bức thư chung của 35 tổ chức gửi Ngoại trưởng Hoa Kỳ là hoàn toàn sai lệch, không có căn cứ thực tế. Các luận điệu xuyên tạc này nhằm mục đích gây chia rẽ, phá hoại sự đoàn kết của dân tộc Việt Nam và làm tổn hại đến uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Do đó, dư  luận cần lên án mạnh mẽ những hành vi xuyên tạc, vu khống này và khẳng định sự tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam này.


 

Wednesday, April 24, 2024

Y Krếc Byă và bản án 13 năm tù có làm thức tỉnh những cái đầu nóng?

 


Tiếp theo loạt bài trước, ngay sau khi Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk tuyên phạt Y Krếc Byă 13 năm tù giam và 05 năm quản chế, ngay lập tức đài RFA đã tổ chức phỏng vấn luật sư “nhân quyền” Hà Huy Sơn xuyên tạc kết quả phiên tòa, cho rằng Y Krếc Byă chỉ hoạt động tôn giáo đơn thuần, không tham gia các hoạt động chính trị chống Đảng, Nhà nước Việt Nam. Các nhà hoạt động trong và ngoài nước không lạ gì với vị luật sư đầy tai tiếng của “hợp tác xã kịch khung”, chỉ cần Hà Huy Sơn cùng các luật sư Đặng Đình Mạnh, Nguyễn Văn Miếng, Trần Vũ Hải, Lê Văn Hòa, Lê Văn Luân, Nguyễn Hà Luân… tham gia bào chữa vụ nào là y như rằng các bị cáo đều ‘kịch khung’ bởi lẽ những luận cứ phản biện của các luật sư này đều rất non và chủ yếu là “cãi cho lấy được” như hàng tôm hàng cá. Vậy các hoạt động của Y Krếc Byă có thật sự chỉ thuần túy tôn giáo như những lý lẽ của luật sư Hà Huy Sơn đưa ra hay không?



Y Krếc Byă trước đây từng tham gia FULRO, năm 2004 bị tuyên phạt cùng tội “Phá hoại chính sách đoàn kết” (năm 2004-2011), những tưởng 8 năm trong tù cải tạo Y Krếc Byă đã học được bài học về tự do, biết ăn năn, hối cải. Nhưng từ năm 2012 đến đầu năm 2023, Y Krếc lại tiếp tục có những hành vi tái phạm, nghe theo sự chỉ đạo của Y Hin và A Ga (đối tượng phản động FULRO lưu vong ở Mỹ đang bị truy nã quốc tế). Từ đó Y Krếc đã tham gia vào cái gọi là “Hội thánh tin lành Đấng Christ Tây Nguyên” và được phong cho chức vụ Phó Ban điều hành hội thánh. Nhiệm vụ của Y Krếc là đi lôi kéo các đối tượng trong các buôn làng gia nhập tổ chức để tiến hành các hoạt động phá hoại chính sách đoàn kết, tham gia, tổ chức các buổi họp, tập huấn trực tuyến với các đối tượng FULRO lưu vong và thu thập hình ảnh, tài liệu, thông tin một chiều sai sự thật, sau đó gửi cho các đối tượng ở nước ngoài nhằm chia rẽ người dân với chính quyền, với lực lượng vũ trang; gây chia rẽ giữa người dân theo các tôn giáo khác nhau.

Với những hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng trên, bằng những chứng cứ, tài liệu của cơ quan chức năng thu giữ được, ngày 8/4/2023 cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk đã tống đạt quyết định khởi tố, bắt tạm giam và khám xét nơi ở Y Krếc Byă về tội “Phá hoại chính sách đoàn kết” quy định tại Điều 116 Bộ luật hình sự. Việc bắt, xử lý Y Krếc Byă là hoàn toàn đúng người, đúng tội, việc tòa án tuyên phạt Y Krếc Byă theo Điều 116 căn cứ vào bản chất các hoạt động chống phá chứ không phải xét xử về hành vi sinh hoạt tôn giáo trái phép. Việc Y Krếc Byă cung cấp thông tin, tài liệu, hình ảnh, thực hiện chỉ đạo của Aga cùng Y Hin, Nguyễn Đình Thắng, Trương Minh Tam, Y Quynh Bdap để các đối tượng xuyên tạc tình hình tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam nhất là vấn đề dân tộc chính là cấu thành rõ ràng của tội Phá hoại chính sách đoàn kết và không thể chối cãi.

Đảng, Nhà nước luôn tôn trọng quyền tự do tôn giáo, đối xử bình đẳng giữa các dân tộc đặc biệt luôn có chính sách hỗ trợ, quan tâm đến tín ngưỡng, tôn giáo, đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số cả nước nói chung, đồng bào Ê Đê ở Tây Nguyên nói riêng nhưng những hành động núp dưới danh nghĩa dân tộc, tôn giáo để kích động ly khai, chia rẽ, xuyên tạc thì không thể không bị xử lý để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Pháp luật quốc tế cũng không công nhận, ủng hộ chủ nghĩa ly khai. Bản án 13 năm tù của Y Krếc Byă liệu có làm giảm đi những cái đầu nóng đang trực chờ chia rẽ khối đại đoàn kết của 54 dân tộc anh em? Các nhà zân chửi, các luật sư nhân quyền phải chăng chỉ vì mục đích lật đổ Đảng Cộng sản Việt Nam mà sẵn sàng cổ súy cho chủ nghĩa ly khai, khủng bố?

Hà Huy Sơn lại nói láo

 


Sau phiên tòa xét xử Y Krec Bya, Hà Huy Sơn - luật sư “tai tiếng” bào chữa cho Y Krec Bya đã trả lời RFA rằng (theo chính đài này tường thuật lại):

Ông ấy nói ông ấy chỉ hoạt động tôn giáo thôi chứ ông ấy không có mục đích chống chính quyền hoặc nhằm lật đổ chính quyền gì cả do vậy ông ấy không đồng ý với cáo buộc của Viện kiểm sát.

Có hai người làm chứng, tức là những người sinh hoạt cùng hội thánh với ông Y Krếc Byă. Hai người làm chứng cũng nói tại toà rằng người ta chỉ thờ Chúa và tham gia sinh hoạt tôn giáo thôi, không thấy ông Y Krếc Byă chống chính quyền hay lật đổ chính quyền gì cả.”

Đây là cách trả lời không còn lạ gì của Hà Huy Sơn cũng như mấy anh chị luật sư dân chủ khác sau mỗi phiên bào chữa “kịch khung” cho thân chủ, nhằm khỏa lấp cái án cao ngất ngưởng của thân chủ mỗi khi được các anh ấy bào chữa. Chẳng vậy mà người ta lại nói đây là các luật sư của “HTX kịch khung”.

Trở lại vấn đề, Hà Huy Sơn trả lời rất lệch lạc

Sơn khẳng định Y Krech Byă "chỉ hoạt động tôn giáo" và "không có mục đích chống chính quyền hoặc lật đổ chính quyền". Tuy nhiên, thực tế đã cho thấy các hoạt động của Y Krech Byă vượt quá phạm vi sinh hoạt tôn giáo thông thường.

Y Krech Byă đã lợi dụng danh nghĩa tôn giáo để tuyên truyền, kích động bạo lực, chia rẽ cộng đồng, gây mất an ninh trật tự địa phương. Các bài giảng, bài viết của Y Krech Byă chứa đựng nội dung xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, kích động thù hận, chia rẽ tôn giáo, kích động bạo lực chống lại chính quyền.

Hai nhân chứng "thờ Chúa và tham gia sinh hoạt tôn giáo" cùng Y Krech Byă lại khẳng định không thấy Y Krech Byă "chống chính quyền hay lật đổ chính quyền". Tuy nhiên, điều này mâu thuẫn với các bằng chứng thu thập được trong quá trình điều tra, cho thấy Y Krech Byă đã có hành vi chống phá Nhà nước, vi phạm pháp luật.

Lời khai của nhân chứng có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm mối quan hệ cá nhân với bị cáo, lo sợ bị trả thù, v.v. Do đó, cần phải đánh giá cẩn trọng lời khai của nhân chứng, kết hợp với các bằng chứng khác để đưa ra kết luận chính xác.

Hoạt động tôn giáo cần được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật. Việc lợi dụng danh nghĩa tôn giáo để chống phá Nhà nước, vi phạm pháp luật là hành vi vi phạm pháp luật và cần được xử lý nghiêm minh.

Luật sư Hà Huy Sơn có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của thân chủ, nhưng cũng cần tuân thủ pháp luật và đạo đức nghề nghiệp. Việc đưa ra những thông tin sai lệch, xuyên tạc có thể gây ảnh hưởng đến tiến trình xét xử và gây hoang mang dư luận.

Cần đánh giá khách quan, toàn diện vụ án Y Krech Byă dựa trên các bằng chứng thu thập được và quy định của pháp luật. Việc lợi dụng danh nghĩa tôn giáo để chống phá Nhà nước, vi phạm pháp luật là hành vi nguy hiểm và cần được xử lý nghiêm minh. Luật sư cần thực hiện trách nhiệm của mình một cách trung thực, khách quan, tuân thủ pháp luật và đạo đức nghề nghiệp.


 

Monday, April 22, 2024

Y Krếc Byă bài học cho việc đi ngược lại truyền thống dân tộc


Những năm gần đây, lợi dụng sự phát triển của mạng internet các đối tượng phản động lưu vong ở Thái Lan, Mỹ thường xuyên liên hệ với những người thân, họ hàng, đồng tu trong nước để tìm hiểu thông tin, tình hình trong nước. Thời gian qua, sau thất bại trong các “chiến dịch” đấu tranh dân chủ bằng nghị trường, biểu tình ở các thành phố lớn, phong trào dân chủ đi vào thoái trào, hàng loạt các “biểu tình viên” các nhà “zân chủ” của các tổ chức như “Việt Tân”, “Chính phủ quốc gia lâm thời”, “Triều đại Việt”, VOICE… bị bóc phốt ăn chặn, bị cơ quan chức năng bắt, xử lý.  Nhận thấy chiêu bài “dân tộc”, “tôn giáo” là vấn đề nhạy cảm, để lại hậu quả lâu dài trong lòng “chế độ cộng sản”, hai vấn đề trên cũng là vấn đề khó giải quyết nhất của các nước trên thế giới nên Y Hin và Aga, là 2 đối tượng phản động  FULRO lưu vong đang ở Mỹ cùng với các đối tượng trong tổ chức “Ủy ban cứu trợ người vượt biển” BPSOS của Nguyễn Đình Thắng, Trương Minh Tam, Nguyễn Văn Đài với dã tâm chống phá đã chuyển hướng lợi dụng chiêu bài “dân tộc”, “tôn giáo” để công kích, hạ uy tín của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Kêu gọi Mỹ và phương Tây đưa Việt Nam vào danh sách “các quốc gia cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo” – CPC từ đó chúng có thể dễ dàng nhận được nhiều hơn các dự án, nguồn tài trợ và được quan thầy xem trọng.



Để thực hiện mưu đồ trên, chúng lừa phỉnh, lôi kéo Y Krếc Byă được và phong cho y làm Phó Ban điều hành của cái gọi là “Hội thánh Tin lành đấng Christ Tây Nguyên”, trong nhiều năm từ 2012 đến năm 2023, lợi dụng vỏ bọc hoạt động tôn giao Y Krếc Byă đã tuyên truyền, lôi kéo nhiều tín đồ Tin lành người đồng bào dân tộc Tây Nguyên tin theo các luận điệu xuyên tạc của các đối tượng trong tổ chức FULRO lưu vong.  Kích động một số người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên vượt biên qua biên giới với hứa hẹn sẽ đưa đi Mỹ, Canada... sống một "tương lai hạnh phúc". Chúng trục lợi từ những người này và lợi dụng việc này để vu cáo chính quyền để xảy ra tình trạng mua bán người. Không dừng lại ở đó, theo sự sắp xếp của Aga, Y Krễc Byă còn hăng hái trả lời phỏng vấn trên RFA vu khống chính quyền và Công an Việt Nam luôn sách nhiễu, cấm cản không cho tự do sinh hoạt tôn giáo. Nhóm "Người Thượng vì công lý” cứ rêu rao, khóc lóc kể lể trên mạng xã hội vu cáo rằng Việt Nam đàn áp người dân tộc thiểu số, đàn áp tôn giáo, phản ánh sai lệch chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta, làm ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Đất nước Việt Nam với 54 dân tộc anh em, đã đoàn kết chống lại kẻ thù ngoại xâm từ hàng nghìn năm nay, trong hai cuộc kháng chiến, đồng bào Tây Nguyên đã đóng góp sức người, sức của cho cách mạng, những hành động cực đoan của Y Krếc Byă, cùng các đối tượng phản động lưu vong đã đi ngược lại với truyền thống đoàn kết, dù đó chỉ là hiện tượng, “con sâu bỏ rầu nồi canh”. Hành động của các đối tượng khiến Việt Nam vô tình rơi vào tầm ngắm của hàng loạt các quốc gia thiếu thiện chí, với những toan tính đen tối trên bàn cờ chính trị, chúng đã công khai mặc cả với các đoàn đàm phán của Nhà nước ta về các điều kiện kinh tế gây ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất, giao thương, cạnh tranh về thuế. Đặc biệt trước những luận điệu xuyên tạc của Y Krếc Byă cùng đám lưu vong như Nguyễn Đình Thắng, Nguyễn Văn Đài, A Ga, Y Muôn trên mảnh đất Tây Nguyên đoàn kết đã xuất hiện các rạn nứt về hữu nghị, đoàn kết giữa các dân tộc anh em. Hậu quả của nó không thể tính toán được, điển hình như các vụ khủng bố tại Cư Kuin ngay sau đó đã khiến 6 cán bộ hi sinh, hàng trăm người dính vào vòng lao lý.

Sáng 28/3/2024, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã mở phiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án “Phá hoại chính sách đoàn kết” xảy ra tại huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk. Y Krếc Byă, tên thường gọi là Ama Guôn, sinh năm 1978, ở buôn K’nia 2, xã Ea Bar, huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk đã phải trả giá cho những hành động ngông nghênh, cuồng ngạo, ảo tưởng bất chấp pháp luật. Những lời nói ân hận cuối cùng, cả cuộc đời Y Krếc Byă có hơn 50 tuổi nhưng có lẽ y phải sống ở trong nhà tù đã 21 năm, đừng nghĩ một quan chức ngoại giao hay một chính quyền phương Tây nào có thể can thiệp được vào công việc nội bộ của Việt Nam. Bản án của Y Krếc Byă hoàn toàn xứng đáng với những gì y đã gây ra cho mảnh đất Tây Nguyên này./.


Saturday, April 20, 2024

ĐẰNG SAU BẢN ÁN “PHÁ HOẠI CHÍNH SÁCH ĐOÀN KẾT” CỦA Y Krếc Byă

 


Sáng 28/3/2024, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã mở phiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án “Phá hoại chính sách đoàn kết” xảy ra tại huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo trong vụ án này là Y Krếc Byă, tên thường gọi là Ama Guôn, sinh năm 1978, ở buôn K’nia 2, xã Ea Bar, huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk.



Y Krếc Byă được biết đến với một trong những thành viên cốt cán với vai trò là Phó Ban điều hành của cái gọi là “Hội thánh Tin lành đấng Christ Tây Nguyên”, trong nhiều năm từ 2012 đến năm 2023, lợi dụng vỏ bọc hoạt động tôn giao Y Krếc Byă đã tuyên truyền, lôi kéo nhiều tín đồ Tin lành người đồng bào dân tộc Tây Nguyên tin theo các luận điệu xuyên tạc của các đối tượng trong tổ chức FULRO lưu vong.  Các đối tượng phản động bên ngoài như  Y Hin và Aga, là 2 đối tượng phản động  FULRO lưu vong đang ở Mỹ cùng với các đối tượng trong tổ chức “Ủy ban cứu trợ người vượt biển” BPSOS của Nguyễn Đình Thắng thường xuyên dựa vào thông tin, hình ảnh, video sai sự thật được Y Krếc Byă cùng các đối tượng trong nước cung cấp để xuyên tạc, vu cáo Việt Nam trên các diễn đàn, Hội nghị quốc tế. Đây được xem là một chiêu bài đắc lực, có hiệu quả được các nước phương Tây lợi dụng, gây sức ép với Việt Nam trong ký kết các điều khoản quốc tế.

Hàng năm các đối tượng như Y Hin và Aga cùng Nguyễn Đình Thắng đã giúp các chính phủ phương Tây giải ngân hàng chục triệu USD từ các quỹ hỗ trợ về “dân chủ”, “nhân quyền”. Các đối tượng xem việc lôi kéo, lợi dụng Y Krếc Byă vào các hoạt động chống đối trong nước để vận động tài trợ, hậu thuẫn có cuộc sống đầy đủ ở nước ngoài còn Y Krếc Byă cùng gia đình thì vướng vào vòng lao lý, phải trả giá cho những hoạt động chống phá đất nước.

Từ năm 2011 đến nay cơ quan chức năng, già làng, người có uy tín của tỉnh Đắk Lắk đã nhiều lần đến nhà để gặp riêng vận động, phân tích, cảnh báo bằng nhiều hình thức từ thấp lên cao cho Y Krếc Byă nhưng với bản chất ngông ngênh và bất chấp pháp luật của Y Krếc Byă thì bản án lần này phải đến là điều có thể dự báo trước. Việc ảo tưởng vào việc các đối tượng như Aga, Y Hin, Nguyễn Đình Thắng, Nguyễn Văn Đài, Trương Minh Tam… có thể vận động được chính giới Hoa Kỳ, “Cao ủy nhân quyền Liên Hiệp Quốc” can thiệp để “Giấc mơ Mỹ” của Y Krếc Byă có thể thực hiện đã hoàn toàn tan vỡ tại phiên tòa xét xử ngày 28/3/2024, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử Y Krếc Byă 13 năm tù 5 năm quản chế, một bản án nghiêm khắc đối với những kẻ không biết hối cải, tiếp tục ảo tưởng vào con đường chống phá (nên nhớ tháng 8/2004, Y Krếc Byă đã từng bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk tuyên án 8 năm tù và phải chấp hành án đến năm 2011).

54 dân tộc an hem cùng sinh sống, giữ gìn đất đước của tiền nhân để lại, việc đi ngược lại với ý chí, nguyện vọng của toàn dân thì không thể chấp nhận dù ở Việt Nam hay bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, đừng trở thành những con cờ trong bàn cờ chính trị đầy toan tính của các nước phương Tây. Người Việt Nam có câu “đánh kẻ chạy đi chứ không đánh kẻ chạy lại” đó là truyền thống đoàn kết của dân tộc nhưng cũng sẽ nghiêm khắc với những kẻ rắp tâm lợi dụng vỏ bọc tôn giáo, thần quyền, giáo lý để phá hoại chính sách đoàn kết./.


 


Friday, April 19, 2024

Hoạt động chống phá có hệ thống của Y Krec Byă

 


Ngày 28/3/2024, Toà án Nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã mở phiên xét xử sơ thẩm công khai và tuyên phạt Y Krếc Byă 13 năm tù giam (5 năm quản chế) về tội danh "phá hoại chính sách đoàn kết" theo quy định tại điều 116 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Trước đó, ngày 08/4/2023, sau quá trình xác minh, điều tra, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk đã ra quyết định khởi tố vụ án phá hoại chính sách đoàn kết xảy ra tại huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk, theo quy định tại Điều 116 Bộ luật Hình sự.

Đây là hậu quả tất yếu xảy ra với Y Krếc Byă, bởi y là kẻ có quá trình chống đối lâu dài, mặc dù được chính quyền địa phương và nhân dân kiên trì vận động, thuyết phục, giáo dục nhưng vẫn ngoan cố, không chịu hối cải. Phải đến khi tòa tuyên án 13 năm tù thì tên này mới bật khóc ngay tại tòa, mong được khoan hồng, nhưng tất cả đã muộn.

Quay trở lại quá khứ, từ cuối năm 2022 khi phát hiện nhà Y Krech Byă có điểm nhóm lạ, chính quyền địa phương đã thuyết phục và vận động Y Krech Byă gỡ bảng hiệu vi phạm vì địa điểm nhà đối tượng không phải nơi sinh hoạt đạo tập trung. Y Krech Byă đã tự nguyện tháo gỡ.

Tuy nhiên được ít hôm, Y Krech Byă tiếp tục treo bảng hiệu có nội dung tương tự với mục đích thông báo và nhằm công khai địa điểm sinh hoạt đạo trái phép tại nhà. Chính quyền xã EaBar đã mời làm việc để vận động thuyết phục tháo gỡ bảng vi phạm, tuy nhiên Y Krech Byă cương quyết không chấp hành. Chính quyền xã đã thành lập tổ công tác tiến hành cưỡng chế ngăn chặn vi phạm theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo an ninh trật tự trong buôn làng.

Đầu năm 2023, Y Krech Byă lại tiếp tục có những hành vi tái phạm, nghe theo sự chỉ đạo của Y Hin và A Ga (đối tượng phản động FULRO lưu vong ở Mỹ đang bị truy nã quốc tế). Từ đó Y Krech Byă đã tham gia vào cái gọi là “Hội thánh tin lành Đấng Christ Tây Nguyên” và được phong cho chức vụ Phó Ban điều hành hội thánh. Nhiệm vụ của Y Krech Byă là đi lôi kéo các đối tượng trong các buôn làng gia nhập tổ chức để tiến hành các hoạt động phá hoại chính sách đoàn kết, tham gia, tổ chức các buổi họp, tập huấn trực tuyến với các đối tượng FULRO lưu vong và thu thập hình ảnh, tài liệu, thông tin một chiều sai sự thật, sau đó gửi cho các đối tượng ở nước ngoài nhằm chia rẽ người dân với chính quyền, với lực lượng vũ trang; gây chia rẽ giữa người dân theo các tôn giáo khác nhau.

Thực tế đó cho thấy Y Krech Byă bị các thế lực phản động lưu vong dụ dỗ lôi kéo, hướng dẫn để tạo lập nên tổ chức “Tin lành đấng christ Tây Nguyên”, sử dụng vỏ bọc tôn giáo, chúng lợi dụng chính sách tự do tôn giáo của Việt Nam để hoạt động. Trên danh nghĩa tự xưng là tôn giáo Tin lành, tuy nhiên tổ chức trên hoạt động trái với mục đích tốt đẹp của Hội thánh Tin lành truyền thống, chúng hoạt động với mục đích phản động, chống lại Nhà nước, phá hoại chính sách đoàn kết dân tộc, dụ dỗ, lôi kéo người dân buôn làng để thực hiện các ý đồ riêng của chúng. “Tin lành đấng christ Tây Nguyên” là một tổ chức phản động đúng nghĩa. Mọi địa điểm liên quan đến tổ chức trên đều không được công nhận và trái pháp luật.

Với quá trình hoạt động chống phá như trên, bản án dành cho Y Krech Byă là hoàn toàn xứng đáng.