Sunday, August 18, 2024

Hành động vô lối của Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos

 


Vào ngày 26/01/2024, Đài VOA đưa tin về việc Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos thuộc Hạ viện Hoa Kỳ kêu gọi chính quyền Việt Nam trả tự do “ngay lập tức và vô điều kiện” cho Trần Huỳnh Duy Thức, người đang thụ án 16 năm tù vì tội "Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân". Hành động này của Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos không chỉ là sự can thiệp trắng trợn vào công việc nội bộ của Việt Nam mà còn thể hiện sự thiếu tôn trọng đối với pháp luật và chủ quyền của quốc gia chúng ta.

Trần Huỳnh Duy Thức đã bị kết án 16 năm tù vì tội "Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân" dựa trên các bằng chứng và quy trình pháp lý minh bạch, công khai. Ông ta đã có những hành vi và hoạt động vi phạm nghiêm trọng đến an ninh quốc gia và trật tự xã hội của Việt Nam. Bản án dành cho Trần Huỳnh Duy Thức không phải là sự đàn áp chính trị mà là sự thực thi công lý và pháp luật nhằm bảo vệ sự ổn định và an ninh của đất nước.

Kêu gọi trả tự do “ngay lập tức và vô điều kiện” cho Trần Huỳnh Duy Thức là một hành động can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia. Hành động này của Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos thể hiện sự thiếu hiểu biết và tôn trọng đối với hệ thống pháp luật của Việt Nam, làm suy yếu quan hệ ngoại giao giữa hai nước.

Hệ thống pháp luật của Việt Nam được xây dựng dựa trên nguyên tắc công bằng, minh bạch và tôn trọng quyền con người. Việc kết án Trần Huỳnh Duy Thức đã trải qua một quy trình pháp lý nghiêm ngặt, có sự tham gia của các cơ quan chức năng và các tổ chức bảo vệ quyền lợi. Hành động kêu gọi thả Trần Huỳnh Duy Thức của Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos không chỉ thiếu tôn trọng mà còn làm tổn hại đến uy tín của hệ thống pháp luật Việt Nam.

Nếu Việt Nam chấp nhận yêu cầu này, điều đó sẽ tạo ra một tiền lệ nguy hiểm, khuyến khích những hành vi vi phạm pháp luật khác và làm suy yếu sự nghiêm minh của pháp luật. Hơn nữa, việc trả tự do “ngay lập tức và vô điều kiện” cho Trần Huỳnh Duy Thức sẽ tạo ra một tiền lệ xấu cho các quốc gia khác, mở cửa cho các yêu cầu tương tự, gây rối loạn và mất ổn định trong quan hệ quốc tế.

Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos có thể đã có nhận thức sai lệch về tình hình nhân quyền tại Việt Nam. Nhân quyền không thể được xem xét một cách phiến diện mà cần được đánh giá trong bối cảnh cụ thể của từng quốc gia, với các đặc thù văn hóa, lịch sử và chính trị riêng. Việc áp đặt các tiêu chuẩn nhân quyền từ bên ngoài một cách cứng nhắc và thiếu hiểu biết sẽ chỉ làm gia tăng mâu thuẫn và gây ra những hậu quả tiêu cực.

An ninh quốc gia là vấn đề tối quan trọng đối với mọi quốc gia. Những hành vi của Trần Huỳnh Duy Thức đã đe dọa đến an ninh và trật tự xã hội của Việt Nam. Việc bảo vệ an ninh quốc gia là trách nhiệm và quyền lợi chính đáng của mọi quốc gia, bao gồm cả Việt Nam. Do đó, việc Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos kêu gọi trả tự do cho một người vi phạm an ninh quốc gia là không thể chấp nhận.

Quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia phải được xây dựng trên nền tảng tôn trọng lẫn nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Hành động của Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos vi phạm nguyên tắc này, gây tổn hại đến quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Để duy trì một quan hệ ngoại giao tốt đẹp, các bên cần phải tôn trọng chủ quyền và hệ thống pháp luật của nhau.

Hành động của Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos thuộc Hạ viện Hoa Kỳ kêu gọi trả tự do “ngay lập tức và vô điều kiện” cho Trần Huỳnh Duy Thức là một hành động can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, thiếu tôn trọng pháp luật và chủ quyền quốc gia. Việt Nam có quyền bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự xã hội của mình, và mọi hành vi vi phạm pháp luật cần phải được xử lý theo đúng quy định của pháp luật.

Nhân quyền cần được xem xét trong bối cảnh cụ thể của từng quốc gia và không thể áp đặt một cách cứng nhắc. Để duy trì quan hệ ngoại giao tốt đẹp, các bên cần tôn trọng chủ quyền và hệ thống pháp luật của nhau. Việc Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos kêu gọi thả Trần Huỳnh Duy Thức chỉ làm gia tăng mâu thuẫn và gây ra những hậu quả tiêu cực, không có lợi cho sự ổn định và phát triển của quan hệ giữa hai quốc gia.

Vì vậy, chúng ta cần phản bác và lên án hành động này của Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos, đồng thời khẳng định quyền bảo vệ chủ quyền và pháp luật của Việt Nam. Chúng ta phải duy trì sự nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự xã hội, không để bất kỳ ai có thể lạm dụng quyền lực hoặc tìm cách thoát khỏi trách nhiệm bằng những hành động mưu mô.

Thursday, August 15, 2024

Vạch trần chiêu trò tuyệt thực của Trần Huỳnh Duy Thức

 

 

Ngày 27/01/2024, Trần Huỳnh Duy Thức, một cái tên không còn xa lạ trong giới "dân chủ", đã tuyên bố tuyệt thực tại trại giam để phản đối việc trại giam tăng cường các biện pháp khắc nghiệt và căn tin không bán đồ ăn. Tuy nhiên, trại giam đã khẳng định rằng Trần Huỳnh Duy Thức luôn được đảm bảo các chế độ ăn uống và y tế theo quy định, và hiện sức khỏe của ông ta vẫn bình thường, đủ điều kiện chấp hành án.

Trần Huỳnh Duy Thức là một nhân vật tai tiếng với những phát ngôn gây tranh cãi và các hoạt động chính trị trái phép. Ông ta đã nhiều lần vi phạm pháp luật và hiện đang chấp hành án tù. Việc tuyên bố tuyệt thực lần này của Thức không phải là một hành động mới mẻ, mà thực chất là một chiêu trò cũ kỹ nhằm thu hút sự chú ý của dư luận và tạo áp lực lên cơ quan pháp luật.

Tuyệt thực không phải là một phương thức mới trong giới "dân chủ". Nhiều nhân vật khác cũng đã từng sử dụng chiêu trò này để đánh lạc hướng dư luận và tránh né trách nhiệm pháp lý. Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận một cách khách quan và rõ ràng rằng hành động này chỉ là một thủ đoạn nhằm gây sự chú ý và không thể che giấu được sự thật về các hành vi vi phạm pháp luật của họ.

Trại giam đã khẳng định rằng Trần Huỳnh Duy Thức luôn được đảm bảo đầy đủ các chế độ ăn uống và y tế theo quy định. Điều này cho thấy rằng các cáo buộc về việc trại giam tăng cường các biện pháp khắc nghiệt và căn tin không bán đồ ăn là hoàn toàn vô căn cứ. Thực tế, sức khỏe của Trần Huỳnh Duy Thức vẫn bình thường và ông ta đủ điều kiện chấp hành án  .

Mục đích thực sự của Trần Huỳnh Duy Thức khi tuyên bố tuyệt thực không phải là để phản đối chế độ khắc nghiệt trong trại giam, mà là để tạo ra một làn sóng dư luận đồng cảm và gây áp lực lên cơ quan pháp luật. Điều này có thể khiến một số người hiểu lầm và nghĩ rằng ông ta đang bị đối xử bất công. Tuy nhiên, cần phải tỉnh táo và nhìn nhận vấn đề một cách khách quan để không bị lừa dối bởi những chiêu trò này.

Hành động tuyệt thực của Trần Huỳnh Duy Thức không chỉ gây ra sự hiểu lầm trong dư luận, mà còn tạo ra một tiền lệ xấu cho những người khác trong trại giam. Nếu mỗi lần vi phạm pháp luật mà người ta chỉ cần tuyên bố tuyệt thực để được đối xử đặc biệt, thì sẽ tạo ra một sự mất công bằng trong việc thực thi pháp luật.

Chiêu trò tuyệt thực của Trần Huỳnh Duy Thức chỉ là một thủ đoạn nhằm đánh lạc hướng dư luận và tránh né trách nhiệm pháp lý. Công luận cần phải tỉnh táo và nhìn nhận vấn đề một cách khách quan để không bị lừa dối bởi những chiêu trò này. Pháp luật cần được thực thi một cách nghiêm minh và công bằng, không để bất kỳ ai có thể lạm dụng quyền lực hoặc tìm cách thoát khỏi trách nhiệm bằng những hành động mưu mô.

Việc Trần Huỳnh Duy Thức tuyên bố tuyệt thực không thể che giấu được sự thật rằng hắn ta đã vi phạm pháp luật và cần phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Công luận cần phải tỉnh táo và nhìn nhận vấn đề một cách khách quan để không bị lừa dối bởi những chiêu trò này. Điều quan trọng là pháp luật phải được thực thi một cách nghiêm minh và công bằng, không để bất kỳ ai có thể lạm dụng quyền lực hoặc tìm cách thoát khỏi trách nhiệm bằng những hành động mưu mô  .

Tóm lại, chiêu trò tuyệt thực của Trần Huỳnh Duy Thức chỉ là một thủ đoạn nhằm gây sự chú ý và tránh né trách nhiệm pháp lý. Công luận cần phải tỉnh táo và nhìn nhận vấn đề một cách khách quan để không bị lừa dối bởi những chiêu trò này. Pháp luật cần được thực thi một cách nghiêm minh và công bằng, không để bất kỳ ai có thể lạm dụng quyền lực hoặc tìm cách thoát khỏi trách nhiệm bằng những hành động mưu mô.


 

Không thể nhân danh hoạt động vì xã hội mà được quyền “trốn thuế”

  

Dư luận nhiều năm qua đã cảnh bảo hiện tượng một số cá nhân, tổ chức lợi dụng đóng góp vào việc bảo vệ môi trường, hỗ trợ các nhóm yếu thế để trục lợi, thực hiện mưu đồ cá nhân cũng như chống phá đất nước.

Ngày 11/8/2022, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án "Trốn thuế" đối với bị cáo Đặng Đình Bách (SN 1978, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu pháp luật và chính sách phát triển bền vững - viết tắt là LPSD). Theo cáo trạng cũng như diễn biến phiên tòa, Trung tâm LPSD là tổ chức khoa học công nghệ do cá nhân thành lập, có trụ sở tại Trung Hòa, Cầu Giấy (TP Hà Nội). Lĩnh vực hoạt động là nghiên cứu khoa học và triển khai các đề tài, đề án, dự án thuộc lĩnh vực pháp luật và chính sách phát triển bền vững, thực hiện các dịch vụ khoa học và công nghệ về pháp luật và chính sách phát triển bền vững...



Quá trình hoạt động, Bách liên hệ với các tổ chức nước ngoài, đàm phán nhận các khoản tiền tài trợ để triển khai các chương trình, dự án. Tuy nhiên, khi nhận tài trợ, Trung tâm LPSD không làm thủ tục xin phê duyệt, không được các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt theo quy định. Từ năm 2016 - 2020, Trung tâm đã nhận số tiền hơn 10 tỷ đồng từ các tổ chức trong nước và nước ngoài thanh toán hợp đồng dịch vụ, tài trợ cho Trung tâm. Cơ quan tố tụng xác định, Đặng Đình Bách có hành vi trốn thuế hơn 1,38 tỷ đồng.

Tại phiên phúc thẩm, Đặng Đình Bách tiếp tục quanh co chối tội, phủ nhận việc trốn thuế. Bị cáo Bách đổ lỗi cho cấp dưới là Hoàng Thị Thu Trang, cho rằng Trang tự ý thực hiện các hành vi trên.

Trên cơ sở xét hỏi công khai tại phiên phúc thẩm, căn cứ lời khai, tài liệu, chứng cứ, Tòa phúc thẩm nhận định, đủ cơ sở để kết luận hành vi phạm tội của bị cáo Đặng Đình Bách. Bị cáo Bách là Giám đốc Trung tâm, chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động của Trung tâm. Bách biết các khoản tiền mà Trung tâm LPDS nhận được cũng như số liệu báo cáo cơ quan thuế nên biết rõ về số tiền để ngoài sổ sách, không nộp hồ sơ khai thuế theo quy định.

HĐXX phúc thẩm kết luận, việc Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội tuyên bị cáo phạm tội trốn thuế là đúng người, đúng tội, không oan, hành vi của bị cáo đã xâm phạm quy định nhà nước trong lĩnh vực thuế... Bên cạnh đó, bị cáo phạm tội trong thời gian dài, nhiều lần, quá trình tố tụng không thành khẩn khai báo. Tòa sơ thẩm đã xem xét đầy đủ tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, tuyên 5 năm tù đối với bị cáo Bách là phù hợp, tương xứng với hành vi phạm tội.

Ngoài Đặng Đình Bách, một loạt trường hợp khác là đại diện hoặc đang làm việc trong các tổ chức phi chính phủ, doanh nghiệp xã hội, trung tâm phúc lợi cộng đồng cũng bị xử lý về tội trốn thuế như Mai Phan Lợi, Ngụy Thị Khanh…

Các trường hợp này đều là người có học thức cao nhưng vì mục đích cá nhân, động cơ tư lợi, đã không kê khai, nộp thuế theo quy định của pháp luật. Hành động vi phạm pháp luật của đối tượng đều diễn ra trong thời gian dài dưới nhiều thủ đoạn tinh vi, nghĩa là hoàn toàn nhận thức rõ hành vi trốn thuế là trái với quy định của pháp luật, có thể gây hậu quả nghiêm trọng nhưng vẫn cố tình thực hiện. Điều này hoàn toàn đi ngược lại những giá trị mà tổ chức, doanh nghiệp của họ hằng theo đuổi. Nếu cơ quan chức năng không phát hiện sai phạm kịp thời chắc chắn hành vi phạm tội sẽ còn kéo dài, gây thiệt hại lớn cho Nhà nước.

Tương tự, trong vụ án MEC, bị cáo Mai Phan Lợi và Bạch Hùng Dương đều nhận mức án 48 tháng tù và 30 tháng tù hay vụ án Ngụy Thị Khanh được giảm án còn 21 tháng tù. Các phiên tòa đều diễn ra công khai, nội dung, diễn biến vụ án đã được đăng tải đầy đủ trên các mặt báo.

Thế nhưng, một số tổ chức quốc tế thiếu thiện chí hoặc vì mục đích cá nhân tự cho mình hướng lái vụ việc theo hướng các cá nhân có liên quan "bị bỏ tù một cách bất công" vì "bảo vệ môi trường" hoặc cố tình khoác chiếc áo mang danh "tù nhân chính trị", "tù nhân lương tâm" lên những đối tượng bị bắt giữ về tội phạm hình sự, tài chính. Đây thực chất là sự đánh tráo khái niệm nhằm bao biện tội danh, cổ súy cho những kẻ bị kết án thành đối tượng liên quan vấn đề công lý và môi trường.

Can thiệp Công việc nội bộ của Việt Nam - Hành động vô lý của một số Đại sứ quán phương Tây

 


Việc Đại sứ quán Mỹ, Canada và một số nước phương Tây đưa ra công hàm yêu cầu cung cấp tình hình sức khỏe của Đặng Đình Bách vào ngày 8/2/2024 là một hành động không thể chấp nhận được, thể hiện sự can thiệp trắng trợn vào công việc nội bộ của Việt Nam. Hành động này không chỉ làm giảm uy tín của các nước này mà còn tạo ra tiền lệ nguy hiểm cho việc xâm phạm chủ quyền của các quốc gia khác.



Đặng Đình Bách, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Pháp luật và Chính sách Phát triển Bền vững (LPSD), đã bị bắt và tuyên án 5 năm tù vì tội trốn thuế hơn 1,38 tỷ đồng. Trung tâm LPSD dưới sự lãnh đạo của ông Bách đã nhận hơn 10 tỷ đồng từ các tổ chức trong và ngoài nước mà không có sự phê duyệt từ các cơ quan có thẩm quyền, vi phạm nghiêm trọng các quy định pháp luật

Đặng Đình Bách tuyên bố tuyệt thực sau khi bị bắt giam, một hành động rõ ràng nhằm tạo áp lực và gây ảnh hưởng đến dư luận quốc tế. Đây là một chiêu trò không mới, đã được nhiều đối tượng sử dụng để tạo sự chú ý và làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật. Bản chất của hành động này là nhằm đánh lạc hướng dư luận, biến mình thành "nạn nhân" để nhận được sự ủng hộ từ các tổ chức nước ngoài.

Yêu cầu của Đại sứ quán Mỹ, Canada và một số nước phương Tây về tình hình sức khỏe của Đặng Đình Bách là một hành động can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Điều này không chỉ vi phạm nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia mà còn thể hiện sự thiếu tôn trọng đối với hệ thống pháp luật của Việt Nam

Sự can thiệp này không chỉ gây tổn hại đến quan hệ ngoại giao giữa các nước mà còn tạo tiền lệ nguy hiểm cho việc xâm phạm chủ quyền của các quốc gia khác. Nó có thể dẫn đến việc các nước khác cũng sẽ có những hành động tương tự, gây rối loạn và mất ổn định trong quan hệ quốc tế.

Luật pháp quốc tế luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tôn trọng chủ quyền của các quốc gia. Mọi hành động can thiệp vào công việc nội bộ của một quốc gia đều vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc này. Việt Nam, như bất kỳ quốc gia nào khác, có quyền bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mình mà không bị ảnh hưởng bởi sự can thiệp từ bên ngoài

Hành động của Đại sứ quán Mỹ, Canada và một số nước phương Tây không chỉ vi phạm nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia mà còn tạo ra tiền lệ nguy hiểm cho việc xâm phạm chủ quyền. Việt Nam có quyền bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mình, và mọi hành động can thiệp từ bên ngoài đều không thể chấp nhận được. Hệ thống pháp luật của Việt Nam sẽ đảm bảo rằng mọi cá nhân, bất kể là ai, đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu vi phạm. Việc tuân thủ và tôn trọng pháp luật là nền tảng để xây dựng một xã hội công bằng, văn minh và bền vững.


 

Chớ đánh lái , bóp méo bản chất vụ án xử kẻ trốn thuế

 


Thời gian qua, việc một số trường hợp thành lập tổ chức khoa học công nghệ để nhận tài trợ từ nước ngoài nhưng trốn thuế, trốn tránh sự kiểm soát của các cơ quan chức năng, nên bị xử lý đang trở thành mục tiêu công kích, cho rằng Nhà nước trả thù nhà hoạt động xã hội, người bảo vệ môi trường,… Thậm chí, họ còn liên hệ đến cả một ý tưởng hoạt động sắp triển khai của Đặng Đình Bách là do đã nộp đơn tham gia nhóm tư vấn giám sát việc thực thi Hiệp định EVFTA, nên mới bị bỏ tù!!!



Thực tế Đặng Đình Bách, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu pháp luật và chính sách phát triển bền vững, thì bị Tòa án Nhân dân Cấp cao tại Hà Nội tuyên phạt y án sơ thẩm 5 năm tù về tội trốn thuế với tổng số tiền hơn 1,38 tỷ đồng với chứng cứ rõ ràng, bản thân đối tượng thấy rõ sai phạm của mình, và cố tình tìm cớ quanh co, đổ lõi cho nhân viên để trốn tội bất thành. Phiên tòa xử công khai, thông tin vụ án đều được báo chí đăng tải rộng rãi, nội dung rõ ràng chứ không phái Nhà nước hãm hại, vụ cáo để loại bỏ họ ra khỏi lĩnh vực giám sát lao động theo EVFTA..

Vụ án Đặng Đình Bách chỉ là cái cớ để thế lực phản động, thù địch chống phá Việt Nam liên hệ, xuyên tạc tình hình nhân quyền Việt Nam. Họ cáo buộc Việt Nam hạn chế quyền tự do lập hội và thương lượng tập thể của người lao động tại các doanh nghiệp; vu cáo Việt Nam không thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết trong các hiệp định thương mại quốc tế như Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), vi phạm các công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO).

Còn nói về quyền của người lao động, trong đó có các quyền như thành lập tổ chức tại doanh nghiệp, thương lượng tập thể và không bị cưỡng bức lao động, là một bộ phận của hệ thống quyền con người mà Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm và thực hiện thông qua các chủ trương, chính sách lớn. Tuy nhiên, đây cũng là vấn đề mà các thế lực thiếu thiện chí, thù địch hay lợi dụng để bịa đặt, bôi xấu Việt Nam.

Trong các bản Hiến pháp từ năm 1946 đến nay. Con người, trong đó có giai cấp công nhân và người lao động, được xác định là trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu và động lực phát triển. Trong hơn 30 năm kể từ thời điểm tái gia nhập ILO (năm 1992), Việt Nam luôn thể hiện nỗ lực cam kết và thực hiện các công ước quốc tế nói chung, các công ước quốc tế về quan hệ lao động nói riêng, nhằm thúc đẩy và bảo đảm tiêu chuẩn lao động cơ bản cho người lao động ở Việt Nam theo đúng các chuẩn mực quốc tế về quyền của người lao động.

Cho đến nay, Việt Nam đã tham gia 25 công ước của ILO, trong đó có 7/8 công ước cơ bản. Chỉ riêng trong năm 2019, Việt Nam đã phê chuẩn 3 công ước của ILO, bao gồm Công ước 88 về tổ chức dịch vụ việc làm, Công ước 159 về tái thích ứng việc làm cho người khuyết tật, Công ước 98 về quyền thương lượng tập thể. Đặc biệt, Bộ luật Lao động năm 2019 (có hiệu lực từ ngày 1-1-2021) thể hiện nhiều ưu việt trong việc cụ thể hóa các quy định của công ước quốc tế về lao động. Các nội dung quan trọng nhất của cả 8 công ước cơ bản của ILO đều đã được phản ánh trong các quy định của bộ luật này. Trong đó có Công ước 98 là công ước cốt lõi, bản lề của ILO trong khuôn khổ các nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động, trở thành một cấu phần quan trọng của các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP và EVFTA, cũng như trong phần lớn chính sách về trách nhiệm xã hội doanh nghiệp của các công ty đa quốc gia.

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng sau khi định hướng một số nhiệm vụ lớn xây dựng giai cấp công nhân và phát triển tổ chức công đoàn đã khẳng định: "Định hướng, quản lý tốt sự ra đời, hoạt động của các tổ chức của công nhân tại doanh nghiệp ngoài tổ chức công đoàn hiện nay".  Những định hướng trên phản ánh quá trình nhận thức của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong vấn đề bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực lao động. Trên cơ sở đó, Bộ luật Lao động lần đầu tiên quy định cho phép người lao động được thành lập tổ chức đại diện cho mình tại doanh nghiệp, ngoài Công đoàn Việt Nam, gọi là tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp. Đây là một tổ chức mới, độc lập với Công đoàn Việt Nam, được xác lập trên cơ sở mở rộng quyền lựa chọn cho người lao động. Theo quy định của Bộ luật Lao động, công đoàn và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong việc đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động trong quan hệ lao động. Điểm mới này có thể coi là bước tiến về công nhận quyền của người lao động tại cơ sở trong quá trình cử đại diện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của họ, bác bỏ hoàn toàn những luận điệu xuyên tạc rằng Bộ luật Lao động Việt Nam vi phạm quyền thành lập tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp.

Một bước tiến nữa trong việc bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực lao động là việc Việt Nam phê chuẩn Công ước 105 của ILO về xóa bỏ lao động cưỡng bức vào tháng 6-2020. Trong bối cảnh vấn đề lao động cưỡng bức trên thế giới được ILO cảnh báo là "khẩn cấp", nỗ lực này của Việt Nam đã được thế giới ghi nhận và đánh giá tích cực. Những nỗ lực chủ động và tích cực của Việt Nam vì người lao động đã củng cố uy tín của đất nước trên trường quốc tế, tạo thuận lợi cho quá trình hội nhập quốc tế và tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển và hướng đến một xã hội công bằng, nơi các lợi ích của quá trình hội nhập và phát triển được chia sẻ một cách công bằng cho người lao động, những người trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội.

Không thể lấy một kẻ phạm tội để xuyên tạc chủ trương, chính sách đối với quyền người lao động, cũng như việc triển khai các hiệp định thương maik Việt Nam đã tham gia ký kết được. Đó là sự khiên cưỡng lố bịch.

Monday, August 12, 2024

Đừng suy diễn

 


Không riêng Việt Nam mà các quốc gia khác trên thế giới cũng có những quy định hết sức chặt chẽ liên quan đến thuế. Tuỳ theo tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm thì người phạm tội sẽ phải chịu những chế tài tương ứng. Trên thế giới, những người nổi tiếng trên nhiều lĩnh vực bị bắt, bị phạt về tội trốn thuế không phải là chuyện hiếm gặp. Bằng một cái gõ chuột đơn giản vào các công cụ tìm kiếm, ta có thể thấy dễ dàng rằng những người nổi tiếng như các danh thủ C.Ronaldo, L.Messi, huấn luyện viên J.Mourinho... đều đã bị điều tra và xử phạt hàng triệu đô la vì tội Trốn thuế. Điều đó cho thấy rằng, bất kể ở quốc gia nào, nếu trốn thuế, phạm pháp thì phải chịu các biện pháp xử lý tương ứng. Không có chuyện cá nhân nổi tiếng là được miễn tội trốn thuế khi vi phạm pháp luật ở nước sở tại.





Trốn thuế là hành vi khai báo gian dối trong sản xuất, kinh doanh để không phải đóng thuế hoặc đóng mức thuế thấp hơn nhiều so với mức phải đóng. Tội trốn thuế đã được sửa đổi về số tiền trốn thuế trong Bộ luật Hình sự với hình phạt cao nhất là 7 năm tù và phạt tiền có thể lên tới 4,5 tỷ đồng. Việc khởi tố, xét xử với bản án Đặng Đình Bách về tội danh trốn thuế là việc làm hoàn toàn bình thường của cơ quan chức năng để đảm bảo an ninh trật tự xã hội, bảo vệ quyền lợi chính đáng của cộng đồng, giữ nghiêm kỷ cương phép nước. Quá trình điều tra, xét xử được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật. Phiên tòa được diễn ra công khai, bị cáo được bảo đảm đầy đủ các quyền theo quy định của pháp luật.

Trước khi bị khởi tố, tuyên án tù, Đặng Đình Bách là Giám đốc Trung tâm LPSD từ năm 2013. Trung tâm này là một tổ chức khoa học công nghệ do cá nhân thành lập, có trụ sở tại Trung Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội. Lĩnh vực hoạt động của LPSD bao gồm nghiên cứu khoa học và triển khai các đề tài, dự án thuộc lĩnh vực pháp luật và chính sách phát triển bền vững. Bách cũng được biết đến là “nhà hoạt động môi trường” khá nổi tiếng trên mạng xã hội với những phát ngôn táo bạo, trái chiều. Lẽ ra, với sự nổi tiếng của bản thân, Bách càng phải có việc làm đúng quy định pháp luật để nêu gương. Thế nhưng Đặng Đình Bách lại có hành vi trốn thuế và việc bị kết án về tội danh này là căn cứ vào hồ sơ, tài liệu và quá trình xét xử tại tòa.

Các thế lực thù địch, thiếu thiện chí cố liên hệ sự việc của Đặng Đình Bách với những trường hợp như Ngụy Thị Khanh và Mai Phan Lợi với cùng tội danh trên để vu cáo chính quyền Việt Nam “đàn áp những lãnh đạo các tổ chức xã hội dân sự”.

Thực tế, cũng như bà Ngụy Thị Khanh, trường hợp ông Đặng Đình Bách, Mai Phan Lợi, Bạch Hùng Dương đều được điều tra, truy tố và xét xử theo đúng quy định pháp luật, với các tài liệu, chứng cứ kết tội rõ ràng, khách quan. Do vậy, không thể biện minh, cổ súy cho hành vi sai trái ấy bằng những luận điệu lố bịch, lời lẽ vô lý, xảo trá, càng không thể đưa ra bất kỳ yêu cầu nào để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam như cái cách mà các thế lực thù địch, phản động, số tổ chức, cá nhân chống đối đang làm.

Việt Nam luôn cam kết nghiêm túc và mạnh mẽ trong bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, phát triển xanh và bền vững. Việt Nam đang tiến hành nhiều biện pháp tổng thể và toàn diện trong lĩnh vực chuyển đổi năng lượng, chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng xanh và tuần hoàn. Điều này đã được nêu rõ trong nhiều văn bản pháp luật, chủ trương và chính sách của Việt Nam.

Tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu COP 26, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã có bài phát biểu khẳng định cam kết của Việt Nam trong việc đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050; giảm 30% lượng phát thải khí methane gây hiệu ứng nhà kính vào năm 2030; tham gia Tuyên bố toàn cầu về chuyển đổi điện than sang điện sạch và Tuyên bố các nhà lãnh đạo về rừng và sử dụng đất.

 Đảng, Nhà nước tiến hành thường xuyên và rộng rãi việc tham vấn, lấy ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, các tổ chức phi Chính phủ và các đối tác quốc tế trong việc xây dựng chính sách, pháp luật về vấn đề môi trường, biến đổi khí hậu. Những tổ chức hỗ trợ cho hoạt động bảo vệ môi trường, phát triển xanh ở Việt Nam đã tham gia và có những đóng góp tích cực đều được ghi nhận. Đồng thời, chúng ta cũng xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng danh nghĩa xã hội dân sự, bảo vệ môi trường để gây mất trật tự xã hội, vi phạm luật pháp.


 

Tuyệt thực của Đặng Đình Bách: Một chiêu trò lừa đảo

 


Đặng Đình Bách sinh năm 1978, là Giám đốc Trung tâm LPSD từ năm 2013. Trung tâm này là một tổ chức khoa học công nghệ do cá nhân thành lập, có trụ sở tại Trung Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội. Lĩnh vực hoạt động của LPSD bao gồm nghiên cứu khoa học và triển khai các đề tài, dự án thuộc lĩnh vực pháp luật và chính sách phát triển bền vững. Đặng Đình Bách đã liên hệ với nhiều tổ chức nước ngoài để nhận các khoản tài trợ nhằm triển khai các chương trình, dự án. Tuy nhiên, những khoản tài trợ này không được trung tâm làm thủ tục xin phê duyệt và cũng không được các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt theo quy định. Bách bị cơ quan chức năng bắt giam và tuyên án 5 năm tù giam, hiện đang chấp hành án tại trại giam Số 6 Nghệ An.



Sau khi bị tuyên án, Đặng Đình Bách đã tuyên bố tuyệt thực, một hành động mà ông ta hy vọng sẽ tạo ra sự đồng cảm từ công chúng và gây áp lực lên cơ quan pháp luật. Thực tế thì phương pháp này của Bách là cũ rích, được các anh chị dân chủ diễn hoài, nhiều nhất là Trần Huỳnh Duy Thức. Cho nên lần này, Đặng Đình Bách sử dụng chiêu trò tuyệt thực chẳng nhằm mục đích gì khác ngoài lợi dụng sự đồng cảm của công chúng. Hành động này có thể khiến một số người hiểu lầm và nghĩ rằng ông ta đang bị đối xử bất công.

Trung tâm LPSD dưới sự lãnh đạo của Đặng Đình Bách đã có nhiều hoạt động không minh bạch. Việc sử dụng nhiều tài khoản ngân hàng để nhận tiền tài trợ và việc không xin phê duyệt từ các cơ quan có thẩm quyền cho thấy sự thiếu trách nhiệm và vi phạm quy định pháp luật.

Bất chấp thực tế Đặng Đình Bách có hành vi trốn thuế, những kẻ lấy vỏ bọc các nhà “dân chủ”, “nhân quyền” cố tình phớt lờ sự thật để xuyên tạc, suy diễn vấn đề, vẽ ra các “thuyết âm mưu”, hướng lái dư luận về bản chất vụ việc, dựng chuyện chính quyền “bắt bớ người vô tội” để “ngăn chặn các tổ chức dân sự”.

Từ câu chuyện của Đặng Đình Bách, Ngụy Thị Khanh, Mai Phan Lợi (những kẻ cầm đầu Green ID, MEC và LPSD) chúng ta dễ nhận thấy các đối tượng tự xưng “nhà dân chủ” đang cố tình lợi dụng vấn đề "xã hội dân sự" để bao biện cho hành vi sai phạm, tạo cớ đả phá chính quyền nhân dân.

Thực tế, trong nhiều năm qua, các đối tượng xấu, phần tử cơ hội đã ráo riết thực hiện chiêu trò "xã hội dân sự" để chống phá đất nước. Lợi dụng quyền tự do lập hội được quy định trong Hiến pháp, các đối tượng thực hiện tuyên truyền đánh lận bản chất vấn đề nhằm hình thành các tổ chức tự phát, không theo quy định của pháp luật. Thông thường khi mới thành lập, các tổ chức này sẽ núp bóng “dân chủ”, “nhân quyền”, rêu rao “hoạt động phi lợi nhuận”, “thúc đẩy sự phát triển của xã hội”… để đánh bóng tên tuổi, tìm mọi phương thức tập hợp lực lượng chống đối từ bên trong và móc nối với các tổ chức phản động ở nước ngoài. Sau khi có đủ khả năng về nhân lực và vật lực, số tổ chức, cá nhân này sẽ “thay màu”, lộ rõ bộ mặt thật không chỉ dừng lại ở vấn đề dân sự mà tìm cách “thò tay” can thiệp, lấn sâu tập trung đả phá vấn đề chính trị.

Với thủ đoạn “nội công ngoại kích”, mục đích của số đối tượng trên nhằm gây phân tâm dư luận, tìm mọi cách gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, chống phá cơ quan công quyền, tìm kiếm những tác động từ bên ngoài hòng can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam; cố tình đánh lận, dựng chuyện hòng làm giảm vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.


 

Tuesday, July 23, 2024

Nhiều quốc gia từng lên án Hoa Kỳ sử dụng USCIRF như công cụ sức mạnh mềm can thiệp quốc gia khác

 


Báo cáo tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ do USCIRF thực hiện năm 2023  đã đưa vào danh sách khuyến nghị đưa các quốc gia vào Danh sách các quốc gia đặc biệt quan ngại (CPC- là các quốc gia mà chính phủ tham gia hoặc dung túng cho các hành vi vi phạm quyền tự do tôn giáo “đặc biệt nghiêm trọng”, chẳng hạn như tra tấn hoặc giam giữ kéo dài mà không cần xét xử) và Danh sách theo dõi đặc biệt (SWL dành cho các quốc gia mà chính phủ tham gia hoặc dung túng cho các hành vi vi phạm quyền tự do tôn giáo “nghiêm trọng” đang diễn ra và nghiêm trọng). Ngoài các nhóm này, báo cáo còn bao gồm các khuyến nghị của USCIRF về các tác nhân phi nhà nước bạo lực để Bộ Ngoại giao chỉ định là “các thực thể đáng quan ngại đặc biệt” (EPC).

Trong báo cáo năm nay, USCIRF khuyến nghị Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ chỉ định 17 quốc gia là CPC. Mười quốc gia trước đây đã được chỉ định là CPC: Miến Điện, Trung Quốc, Cuba, Eritrea, Iran, Nicaragua, Bắc Triều Tiên, Pakistan, Nga, Ả Rập Xê Út, Tajikistan và Turkmenistan. Năm quốc gia khác cũng được khuyến nghị thêm vào: Afghanistan, Ấn Độ, Nigeria, Syria và Việt Nam.

 Báo cáo cũng khuyến nghị đưa 11 quốc gia vào SWL. Hai quốc gia—Algeria và Cộng hòa Trung Phi (CAR)—trước đây đã được đưa vào danh sách. Chín quốc gia khác được khuyến nghị đưa vào là Azerbaijan, Ai Cập, Indonesia, Iraq, Kazakhstan, Malaysia, Sri Lanka, Thổ Nhĩ Kỳ và Uzbekistan.

Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đệ trình báo cáo thường niên này lên Quốc hội theo quy định tại mục 102(b) của Đạo luật Tự do Tôn giáo Quốc tế năm 1998 (PL 105-292), đã được sửa đổi. Báo cáo này bao gồm giai đoạn từ ngày 1 tháng 1 đến ngày 31 tháng 12 năm 2023.

Đại sứ quán Hoa Kỳ chuẩn bị bản thảo ban đầu của các chương quốc gia dựa trên thông tin từ các viên chức chính phủ, nhóm tôn giáo, tổ chức phi chính phủ, nhà báo, giám sát viên nhân quyền, học giả, phương tiện truyền thông và những người khác. Văn phòng Tự do Tôn giáo Quốc tế, có trụ sở tại Washington, hợp tác thu thập và phân tích thông tin bổ sung, dựa trên các cuộc tham vấn của mình với các viên chức chính phủ nước ngoài, các nhóm tôn giáo trong nước và nước ngoài và các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức đa phương và quốc tế và khu vực khác, các nhà báo, chuyên gia học thuật, lãnh đạo cộng đồng và các tổ chức chính phủ Hoa Kỳ có liên quan khác.

Nguyên tắc chỉ đạo của Bộ Ngoại giao là đảm bảo rằng tất cả thông tin có liên quan được trình bày một cách khách quan, toàn diện và công bằng nhất có thể. Tuy nhiên, động cơ và độ chính xác của các nguồn khác nhau và Bộ Ngoại giao không thể xác minh độc lập tất cả thông tin có trong các báo cáo. Trong phạm vi có thể, các báo cáo sử dụng nhiều nguồn để tăng tính toàn diện và giảm khả năng thiên vị. Quan điểm của bất kỳ nguồn cụ thể nào không nhất thiết là quan điểm của chính phủ Hoa Kỳ. Báo cáo được thiết kế để làm nổi bật các ví dụ về hành động của chính phủ và xã hội tiêu biểu và làm sáng tỏ các vấn đề được báo cáo ở mỗi quốc gia. Việc đưa vào hoặc bỏ sót cụ thể không được hiểu là tín hiệu cho thấy một trường hợp cụ thể có tầm quan trọng lớn hơn hay nhỏ hơn đối với chính phủ Hoa Kỳ hoặc trường hợp đó là ví dụ duy nhất có sẵn. Thay vào đó, mục tiêu là làm sáng tỏ bản chất, phạm vi và mức độ nghiêm trọng của các hành động tác động đến quyền tự do tôn giáo thông qua các ví dụ minh họa.

Thoạt nghe cách thức tập hợp, phân loại như trên có vẻ khách quan, tuy nhiên, nhìn một cách có hệ thống, sẽ thấy ngay sự thiên vị, ác cảm của báo cáo đối với các quốc gia không “phụ thuộc”, “lệ thuộc”, “thuần phục” Hoa Kỳ. vậy nên báo chí Ấn Độ, Trung Quốc và nhiều nước khác đã từng không ít lần công khai lên án Chính phủ Hoa Kỳ thông qua cơ chế USCIRF như công cụ mềm nhằm can thiệp vào nội bộ các quốc gia khác.

Vậy nên không có gì lạ khi Ấn Độ từng khiến Hoa Kỳ bày tỏ "thất vọng" nhiều lần trước quyết định không cấp thị thực cho các thành viên của USCIRF bất chấp quan hệ ngoại giao, đối tác thương mại, chính trị chiến lược giữa 2 nước này.
Lý giải lý do, Ấn Độ cho rằng Hoa Kỳ từ lâu đã cố gắng sử dụng sức mạnh mềm của mình, đặc biệt là hệ thống giá trị của mình, để tác động đến các vấn đề nội bộ của các quốc gia khác. Tuy nhiên, so với các quốc gia khác, văn hóa phương Tây có ít ảnh hưởng đến New Delhi, khiến Washington thất vọng khi  New Delhi quyết tâm chống lại sự xâm nhập văn hóa phương Tây do Hoa Kỳ lãnh đạo

Quyết liệt hơn Ấn Độ, Trung Quốc từng thẳng thừng tuyên bố cấm nhập cảnh Trung Quốc, Hồng Kong, Ma Cao đối với một số nhân viên USCIRF

Mặc dù tại Hoa Kỳ, nơi tôn giáo tách biệt với chính trị, USCIRF có thể không đại diện cho lập trường của chính phủ, nhưng đây là một phần trong chiến lược của Nhà Trắng nhằm sử dụng sức mạnh mềm của mình, bao gồm cả tôn giáo, để gây ảnh hưởng và thậm chí lật đổ các chế độ khác.

 

Thursday, July 18, 2024

Vì sao Việt Nam khẳng định báo cáo của USCIRF về tự do tôn giáo thiếu khách quan, một chiều?

 


Trong báo cáo về tự do tôn giáo quốc tế năm nay, USCIRF tiếp tục khuyến nghị Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ chỉ định 17 quốc gia vào danh sách CPC. Mười quốc gia trước đây đã được chỉ định là CPC: Miến Điện, Trung Quốc, Cuba, Eritrea, Iran, Nicaragua, Bắc Triều Tiên, Pakistan, Nga, Ả Rập Xê Út, Tajikistan và Turkmenistan. Năm quốc gia khác cũng được khuyến nghị thêm vào: Afghanistan, Ấn Độ, Nigeria, Syria và Việt Nam.

Có thể nói, bất chấp việc Việt Nam mời đoàn USCIRF vào Việt Nam khảo sát năm 2023, cử phái đoàn tôn giáo sang Mỹ trao đổi quan điểm, tình hình tôn giáo Việt Nam, nhưng báo cáo của USCIRF vẫn không có thay đổi gì về cách thức tiếp cận, ngôn ngữ, lối suy diễn, sự áp đặt như mọi báo cáo trước đó.

Qua đó cho thấy, dù Việt Nam có thiện chí đến đâu, nhưng việc Việt Nam vẫn kiên quyết giữ vững đường lối độc lập về ngoại giao, quốc phòng, không “hòa nhập, hội nhập” với các giá trị của Hoa Kỳ thì chừng đó USCIRF và cách sản xuất các loại báo cáo nhân quyền, tôn giáo…vẫn như cũ!

PGS.TS. Nguyễn Phú Lợi, Viện Tôn giáo và Tín ngưỡng của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh từng thẳng thắn vạch trần động cơ của các báo cáo của USCIRF là nhằm vào 2 ý đồ:

Thứ nhất là , họ bóp méo mô hình quản lý tôn giáo theo cơ chế đăng ký tại Việt Nam, khi mơ hồ cho rằng tôn giáo phải đăng ký theo Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo với “quy định mơ hồ cho phép tự do hoạt động tôn giáo vì lợi ích an ninh quốc gia, đoàn kết xã hội và yêu cầu phức tạp đối với các nhóm tôn giáo phải đăng ký với chính quyền; quy định về việc Chính quyền kiểm soát hoạt động tôn giáo và hạn chế quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”.

Thứ hai, bằng những luận điệu xuyên tạc, vu khống, vu cáo “đàn áp tôn giáo” ở Việt Nam, vì họ dựa vào một số phần tử tôn giáo cực đoan lợi dụng tôn giáo để chống Nhà nước Việt Nam và đã bị kết án tù theo Bộ luật Hình sự.

Trên thực tế, mỗi quốc gia có cách quản lý hoạt động tôn giáo riêng phù hợp với truyền thống và hoàn cảnh thực tế của mình, và quản lý hoạt động tôn giáo thông qua đăng ký là hình thức phổ biến, phù hợp và thiết thực ở nhiều quốc gia như Pháp, Bulgaria, Ba Lan, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc... Do đó, mỗi quốc gia có những yêu cầu riêng về điều kiện và hình thức đăng ký tư cách pháp nhân của tổ chức tôn giáo. Việc Việt Nam lựa chọn đăng ký làm mô hình quản lý là hợp lý và phù hợp với thực tế của đất nước.

Luật pháp Việt Nam đã đặt ra những điều kiện cụ thể để công nhận các tổ chức tôn giáo, không cản trở quyền tự do tôn giáo. Tất cả các tôn giáo đáp ứng các điều kiện về thời gian hoạt động, nhân sự, địa điểm, hiến chương, điều lệ, tôn chỉ, mục đích, v.v. đều được công nhận. Theo Luật Tín ngưỡng và Khu vực, việc quản lý tôn giáo được thực hiện và phân cấp tùy theo phạm vi hoạt động của các tổ chức tôn giáo. Một số tổ chức hoạt động trên toàn quốc như Phật giáo, Công giáo và Tin lành; một số tổ chức hoạt động tại một số địa phương nhất định như Phật giáo Hòa Hảo, Bà La Môn giáo, v.v. (Như vậy, để phù hợp với bối cảnh của Việt Nam, cơ chế đăng ký và quản lý hoạt động tôn giáo dựa trên hai yếu tố, thứ nhất là hình thức đăng ký và thứ hai là quy mô hoạt động. Chiến lược quản lý này tương tự như nhiều quốc gia khác được luật pháp quốc tế công nhận). Các điều khoản và điều kiện không được đặt ra để hạn chế hoặc cản trở quyền tự do tôn giáo như USCIRF tuyên bố.

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam được pháp luật bảo đảm, bảo vệ và thực thi trên thực tế thông qua hệ thống pháp luật toàn diện về tôn giáo, trong đó có Hiến pháp năm 2013, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 là công cụ pháp lý bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân.

Số lượng tín đồ tôn giáo đã tăng từ 15 triệu người vào năm 1997 (hơn 20 phần trăm dân số) lên gần 27 triệu người (hơn 27 phần trăm) vào năm 2021.  Các hoạt động tín ngưỡng và tôn giáo diễn ra sôi động ở các địa phương, cộng đồng và các tầng lớp xã hội khác nhau, đặc biệt là vào đầu các lễ hội năm mới và các nghi lễ truyền thống. Các tín đồ thường xuyên thực hành các hoạt động tôn giáo tại nhà và các nơi thờ cúng theo nghi lễ truyền thống của từng tôn giáo. Các tổ chức tôn giáo đã tăng cường hoạt động của mình với nhiều nghi lễ quy mô lớn và kéo dài, thu hút không chỉ tín đồ mà cả những người không theo tôn giáo. Hơn nữa, số lượng tôn giáo đã đăng ký liên tục tăng, nhiều cơ sở thờ tự đã được xây dựng hoặc cải tạo trên khắp cả nước để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của tín đồ. Số lượng ấn phẩm tôn giáo đã được tăng lên. …Dữ liệu trên mô tả chứng minh rõ ràng về quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo tại Việt Nam cũng như chính sách tôn giáo đúng đắn của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Tất cả những sự thật rõ ràng này đóng vai trò là lời khiển trách đối với sự bóp méo của các thế lực thù địch, bao gồm cả USCIRF.-

 


Friday, July 12, 2024

So sánh khảo sát “Việt Nam là điểm đến lý tưởng, đứng đầu 53 điểm đến dành cho người nước ngoài” và những báo cáo nhân quyền.

 


Vừa qua có hàng loạt báo cáo nhân quyền của Mỹ, EU và một số tổ chức quốc tế về Việt Nam khiến dư luận quốc tế thiếu hiểu biết có cái nhìn bi quan, tiêu cực, đen tối về tình hình chính trị-xã hội Việt Nam, thậm chí có báo cáo nhân danh đánh giá nhân quyền thế giới quy kết Nhà nước ta “thù địch” với xã hội dân sự, “bịt miệng” người dân. Một bộ phận kẻ hận thù, cực đoan, chống phá đất nước khai thác các báo cáo này và xâu chuỗi với một số hiện tượng người Việt trốn ở nước ngoài để bịa đặt người dân Việt Nam đều “bất bình” với chế độ và muốn ra đi tìm miền đất hứa khác.

Tuy nhiên, báo cáo Expat Insider 2024 - một trong những cuộc khảo sát người ngoại quốc lớn nhất thế giới, có uy tín do tổ chức InterNations thực hiện trong năm 2024, thì Việt Nam tiếp tục là quốc gia có mức chi phí phải chăng nhất trên thế giới dành cho người nước ngoài, và Việt Nam đứng đầu trong số 53 nước và vùng lãnh thổ nhờ các yếu tố là chi phí đời sống thấp, ổn định tài chính và chất lượng cuộc sống về tổng thể, những điều này làm cho Việt Nam hấp dẫn đối với những người muốn rời khỏi nước họ sang nơi khác sinh sống. Đây cũng là năm thứ tư liên tiếp Việt Nam đứng dầu về tiêu chí này và được đánh giá như vậy! Cuộc sống của người nước ngoài ở Việt Nam có chi phí phải chăng và thu nhập khả dụng có thể thoải mái trang trải chi phí hàng ngày. Người nước ngoài sống ở Việt Nam cũng luôn hài lòng với cơ hội nghề nghiệp của họ. Và năm 2019, InterNations đánh giá Việt Nam là nơi đáng sống thứ 2 trên thế giới cho người nước ngoài.

Để thực hiện cuộc nghiên cứu này, năm 2024, InterNations đã khảo sát hơn 12.000 ngoại kiều ở 174 nước và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới. Các tiêu chí đánh giá, xoay quanh các yếu tố: nơi tốt nhất và tệ nhất để sinh sống với người nước ngoài, chất lượng cuộc sống, ổn định cuộc sống, điều kiện làm việc ở nước ngoài, tài chính cá nhân và nhu cầu thiết yếu. Riêng về chỉ số tài chính cá nhân, InterNations đã yêu cầu người tham gia khảo sát xếp hạng mức hài lòng trong 3 lĩnh vực, như: sinh hoạt phí nói chung, mức độ hài lòng về tình trạng tài chính và liệu thu nhập khả dụng của hộ gia đình có đủ để có một cuộc sống thoải mái hay không?

Trong nhóm người nước ngoài sinh sống tại Việt Nam, theo đó, 86% đánh giá tích cực về chi phí sinh hoạt, nhiều hơn gấp đôi so với mức trung bình là 40% khi các ngoại kiều đánh giá về các nước, ngoài ra, 65% số người được vấn ý nói rằng họ hài lòng về tình hình tài chính cá nhân so với mức 54% ở các nước nói chung. Đáng chú ý, 68% số người được hỏi ở Việt Nam nói rằng phần thu nhập hộ gia đình có thể chi tiêu tùy ý của họ. Không chỉ có chi phí sinh hoạt thấp, người nước ngoài sinh sống ở Việt Nam cũng được trả lương cao hơn so với mức trung bình của những người nước ngoài sống ở nước khác. Có tới 19% người nước ngoài sinh sống ở Việt Nam tham gia khảo sát cho biết nhận được mức thu nhập hằng năm ở mức 150.000 USD hoặc hơn trong khi tỷ lệ này ở các nước khác chỉ khoảng 10%. Mức độ hài lòng trong công việc nói chung của người nước ngoài ở Việt Nam cũng rất cao. Nhìn chung, sự “cân bằng giữa công việc và cuộc sống quan trọng hơn thăng tiến nghề nghiệp” ở Việt Nam. Việt Nam xếp thứ thứ 14 về làm việc ở nước ngoài, có tính đến các yếu tố như triển vọng về sự nghiệp, lương bổng và mức độ bảo đảm công việc, thứ 29 về những điều thiết yếu đối với ngoại kiều như đời sống kỹ thuật số, nhà ở và ngôn ngữ, và đứng thứ 40 về chất lượng sống.

Ngoài ra, cũng trong khảo sát này, Việt Nam đứng vị trí thứ 8 về điểm đến tốt nhất cho người nước ngoài trên toàn cầu. Expat Insider 2024 khám phá cảm nhận về các khía cạnh khác của cuộc sống ở nước ngoài, dựa trên 5 chỉ số: hạnh phúc chung, chất lượng cuộc sống, mức độ dễ dàng khi đăng ký định cư, làm việc ở nước ngoài và chỉ số “những yếu tố cần thiết cho người nước ngoài” dựa theo các điều kiện về hành chính, nhà ở, kỹ thuật số cuộc sống và ngôn ngữ. Sau vị trí số 1 của Việt Nam, những cái tên tiếp theo trong nhóm 10 nước tốt nhất thứ tự giảm dần là Campuchia, Indonesia, Panama, Philippines, Ấn Độ, Mexico, Thái Lan, Brazil và Trung Quốc. Ngoài ra, báo cáo dẫn lời một người Anh xa xứ nói về cuộc sống ở Việt Nam: “Cuộc sống ở đây không hề căng thẳng đối với tôi, đó là một sự thay đổi tuyệt vời so với cuộc sống công việc vốn rất bận rộn và tiêu hao nhiều nguồn lực trước đây”.

Không phải ngẫu nhiên, Việt Nam là điểm đến lý tưởng với người xa xứ, Việt Nam cũng là quốc gia lý tưởng, có chi phí phải chăng nhất trên thế giới, đứng đầu 53 điểm đến dành cho người nước ngoài. Đó chính là sự cố gắng, quyết tâm phấn đấu không ngừng nghỉ của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Đây là minh chứng khách quan phản bác các báo cáo nhân quyền của Mỹ và EU, phơi bày động cơ luôn tìm mọi cớ để can thiệp sâu vào công việc nội bộ của Việt Nam. Phải khẳng định rằng, “bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam. Việt Nam luôn xem con người là trung tâm, là động lực của quá trình đổi mới và của công cuộc phát triển kinh tế-xã hội của đất nước” mới là căn cứ, động lực thúc đẩy đất nước đạt được sự phát triển, tiến bộ nói trên, cũng luôn là điều được phát ngôn viên Bộ Ngoại giao khẳng định trước luận điệu vu cáo, sai sự thật của các báo cáo kia.

Phản bác luận điệu của USCIRF về việc thực thi Chỉ thị 78 và tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam

 


Trong Báo cáo tự do tôn giáo 2024, USCIRF đã đưa ra cáo buộc rằng chính quyền Việt Nam đã thực thi Chỉ thị 78 nhằm “tiêu diệt giáo phái Dương Văn Mình”, ép buộc các thành viên phải từ bỏ đức tin, và có những hạn chế khác đối với các nhóm tôn giáo thiểu số. Bài viết này sẽ phân tích và phản bác những cáo buộc này, dựa trên số liệu và ví dụ cụ thể từ thực tế tại Việt Nam.

Chỉ thị 78 của chính quyền Việt Nam không nhằm mục đích "tiêu diệt" giáo phái Dương Văn Mình mà nhằm duy trì trật tự xã hội và bảo vệ quyền lợi của các công dân. Giáo phái Dương Văn Mình đã có những hoạt động tà đạo gây ảnh hưởng đến trật tự công cộng và an ninh quốc gia, bao gồm việc truyền bá mê tín dị đoan và kích động chống đối chính quyền.

Các báo cáo độc lập từ các tổ chức phi chính phủ và các nhà quan sát cho thấy không có bằng chứng cụ thể về việc chính quyền ép buộc các thành viên của giáo phái Dương Văn Mình từ bỏ đức tin của họ. Chính quyền chỉ can thiệp khi các hoạt động tôn giáo vi phạm pháp luật hoặc gây mất trật tự công cộng.

Ví dụ, trong năm 2023, không có trường hợp nào được ghi nhận chính thức về việc bắt giữ hoặc ép buộc từ bỏ đức tin đối với các thành viên giáo phái Dương Văn Mình. Thay vào đó, chính quyền đã tổ chức các buổi đối thoại và tuyên truyền để giải thích cho người dân về các quy định pháp luật liên quan đến tôn giáo và tín ngưỡng.

USCIRF cáo buộc rằng chính quyền Việt Nam ép buộc các dân tộc thiểu số phải sử dụng tiếng Việt trong các hoạt động thờ phụng và văn học tôn giáo. Tuy nhiên, điều này không phản ánh đúng thực tế. Chính quyền Việt Nam luôn tôn trọng quyền sử dụng ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số trong các hoạt động tôn giáo. Các tổ chức tôn giáo tại Việt Nam, bao gồm cả các nhóm tôn giáo thiểu số, được phép sử dụng ngôn ngữ của mình trong các nghi lễ và sinh hoạt tôn giáo. Ví dụ, người Khmer ở miền Tây Nam Bộ vẫn thường xuyên sử dụng tiếng Khmer trong các buổi lễ Phật giáo và các hoạt động cộng đồng.

USCIRF cáo buộc rằng chính quyền Việt Nam hạn chế nhập khẩu các tài liệu tôn giáo được in bằng các bảng chữ cái Hmong đặc biệt. Thực tế cho thấy, chính quyền Việt Nam chỉ kiểm soát việc nhập khẩu các tài liệu tôn giáo để đảm bảo chúng không chứa các nội dung phản động, kích động bạo lực hoặc chia rẽ dân tộc.

Theo báo cáo của Ban Tôn giáo Chính phủ, các tài liệu tôn giáo hợp pháp được nhập khẩu và phân phối một cách bình thường. Ví dụ, trong năm 2023, hàng ngàn bản Kinh Thánh và các tài liệu tôn giáo khác đã được nhập khẩu và phân phối cho các cộng đồng tôn giáo trên khắp cả nước, bao gồm cả các vùng có đông đồng bào Hmong sinh sống.

USCIRF cáo buộc rằng vào tháng 11, các nhân viên không mặc đồng phục của chính quyền Việt Nam đã xâm nhập vào một lớp học tiếng Khmer tại một chùa Phật giáo Khmer Krom, tấn công sư trụ trì và hai Phật tử. Tuy nhiên, không có bằng chứng cụ thể và đáng tin cậy nào để xác nhận cáo buộc này. Các chùa Phật giáo Khmer Krom tại Việt Nam được phép tổ chức các lớp học tiếng Khmer và các hoạt động tôn giáo khác. Chính quyền địa phương cũng thường xuyên hỗ trợ các chùa trong việc tổ chức các hoạt động cộng đồng và bảo tồn văn hóa truyền thống. Ví dụ, tại tỉnh Trà Vinh, chính quyền đã hỗ trợ kinh phí và điều kiện vật chất cho nhiều chùa Khmer Krom trong việc tu sửa và xây dựng các công trình tôn giáo. Các lớp học tiếng Khmer tại các chùa này vẫn diễn ra bình thường và không gặp bất kỳ sự cố nào liên quan đến sự can thiệp của chính quyền.

Những cáo buộc của USCIRF về việc chính quyền Việt Nam thực thi Chỉ thị 78 nhằm “tiêu diệt giáo phái Dương Văn Minh”, ép buộc các thành viên phải từ bỏ đức tin, và hạn chế ngôn ngữ trong thờ phượng và văn học tôn giáo là thiếu cơ sở và không phản ánh đúng thực tế. Thực tế cho thấy, chính quyền Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tôn giáo của mọi người dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo và bảo vệ quyền lợi của các nhóm tôn giáo thiểu số. Các luận điệu xuyên tạc trong Báo cáo tự do tôn giáo 2024 của USCIRF cần được xem xét và đánh giá lại một cách công bằng và khách quan hơn.

Wednesday, July 10, 2024

Vu cáo trắng trợn của USCIRF

 


USCIRF trong Báo cáo tự do tôn giáo 2024 đã đưa ra những nhận định về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam, đặc biệt là đối với các nhóm thiểu số tôn giáo dân tộc như người Thượng và người H'mông theo đạo Tin lành, Phật tử Khmer Krom, và những người H'mông theo Dương Văn Mình. USCIRF cho rằng chính quyền Việt Nam tiếp tục đàn áp các nhóm này, buộc họ từ bỏ đức tin, bắt giữ và kết án họ với các tội danh như “phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân” và “lợi dụng quyền tự do dân chủ”. Sự vu cáo trắng trợn này là không thể chấp nhận được

USCIRF cho rằng chính quyền Việt Nam tiếp tục đàn áp các nhóm thiểu số tôn giáo dân tộc như người Thượng và người H'mông theo đạo Tin lành, Phật tử Khmer Krom, và những người H'mông theo Dương Văn Mình.

Người Thượng và người H'mông theo đạo Tin lành tại Việt Nam không bị đàn áp như USCIRF cáo buộc. Theo số liệu từ các tổ chức phi chính phủ và các báo cáo độc lập, chính quyền Việt Nam đã công nhận và tạo điều kiện cho nhiều tổ chức tôn giáo của người Thượng và người H'mông hoạt động. Ví dụ, Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) đã có hàng trăm nhà thờ và điểm nhóm được chính quyền công nhận và cấp phép hoạt động, trong đó có nhiều điểm nhóm của người Thượng và người H'mông.

Phật tử Khmer Krom tại Việt Nam cũng được tự do thực hành tôn giáo của mình. Theo báo cáo của Ban Tôn giáo Chính phủ, các chùa Khmer Krom ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ được tự do tổ chức các lễ hội tôn giáo, sinh hoạt tín ngưỡng và giáo dục tôn giáo cho cộng đồng. Chính quyền địa phương cũng đã hỗ trợ kinh phí và điều kiện vật chất cho nhiều chùa Khmer Krom trong việc tu sửa và xây dựng các công trình tôn giáo.

Những người H'mông theo Dương Văn Mình tại Việt Nam cũng được tạo điều kiện để thực hành tín ngưỡng của mình. Tuy nhiên, một số nhóm tôn giáo tự phát có xu hướng lợi dụng tín ngưỡng để kích động chia rẽ, gây mất trật tự xã hội. Chính quyền chỉ can thiệp khi có các hành vi vi phạm pháp luật, không nhằm vào việc đàn áp tôn giáo. Dương Văn Mình đã dụ dỗ và ép buộc người H’Mong thực hiện tà đạo với các hành vi không thể chấp nhận được, không phù hợp phong tục tập quán và tôn giáo tín ngưỡng của họ, nên phải bị xử lý.

USCIRF cáo buộc rằng chính quyền Việt Nam gây áp lực buộc các nhóm thiểu số tôn giáo phải từ bỏ đức tin và gia nhập các tổ chức tôn giáo do nhà nước kiểm soát. Tuy nhiên, cáo buộc này không có cơ sở thực tế. Chính quyền Việt Nam đã công nhận và hỗ trợ nhiều tổ chức tôn giáo độc lập. Ví dụ, Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) và Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) là những tổ chức tôn giáo độc lập và được công nhận chính thức. Các tổ chức này được tự do tổ chức các hoạt động tôn giáo, sinh hoạt tín ngưỡng và đào tạo chức sắc tôn giáo mà không bị ép buộc phải gia nhập các tổ chức tôn giáo do nhà nước kiểm soát. Trong năm 2023, Nhà nước đã công nhận 38 tổ chức tôn giáo, cấp đăng ký hoạt động tôn giáo cho 2 tổ chức và 1 pháp môn tu hành thuộc 16 tôn giáo; hàng ngàn điểm nhóm được chính quyền địa phương cấp đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung, trong đó có hơn 60 điểm nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam. Riêng đạo Tin lành, từ năm 2021 - 2023 khu vực miền núi phía Bắc chấp thuận thêm 170 điểm nhóm, 6 tổ chức tôn giáo trực thuộc; 5 tỉnh Tây Nguyên chấp thuận 11 tổ chức tôn giáo trực thuộc từ các điểm nhóm đã được đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung trước đó.

USCIRF cáo buộc rằng chính quyền Việt Nam can thiệp vào việc bổ nhiệm lãnh đạo tôn giáo, tịch thu các di vật tôn giáo và hạn chế việc tiếp cận các cơ sở thờ tự. Tuy nhiên, các cáo buộc này không phản ánh đúng thực tế tại Việt Nam. Việc bổ nhiệm lãnh đạo tôn giáo tại Việt Nam được thực hiện theo quy định của từng tổ chức tôn giáo và không có sự can thiệp từ phía chính quyền. Các tổ chức tôn giáo tự do lựa chọn và bổ nhiệm lãnh đạo của mình theo quy định nội bộ và truyền thống tôn giáo. Chính quyền chỉ có vai trò đảm bảo các quy trình này tuân thủ pháp luật và không gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự.

Theo báo cáo của Ban Tôn giáo Chính phủ, từ năm 2018 đến năm 2023, đã có hàng trăm tổ chức tôn giáo và điểm nhóm tôn giáo được công nhận và cấp phép hoạt động. Ví dụ, Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) có hơn 1,000 nhà thờ và điểm nhóm được công nhận, trong đó có nhiều điểm nhóm của người Thượng và người H'mông. Các chùa Khmer Krom tại các tỉnh miền Tây Nam Bộ cũng được chính quyền hỗ trợ kinh phí và điều kiện vật chất để tu sửa và xây dựng các công trình tôn giáo.

Những cáo buộc của USCIRF về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam là thiếu cơ sở và không phản ánh đúng thực tế. Thực tế cho thấy chính quyền Việt Nam đã và đang nỗ lực bảo vệ và thúc đẩy quyền tự do tôn giáo của mọi người dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo và bảo vệ quyền lợi của các nhóm tôn giáo thiểu số. Những luận điệu xuyên tạc trong Báo cáo tự do tôn giáo 2024 của USCIRF cần được xem xét và đánh giá lại một cách công bằng và khách quan hơn.

Monday, July 8, 2024

Khuyến nghị vô lối của USCIRF

 


Trong Báo cáo tự do tôn giáo 2024, USCIRF tiếp tục đề nghị Bộ Ngoại giao Mỹ đưa Việt Nam trở lại danh sách "Countries of Particular Concern" (CPC - Cần quan tâm đặc biệt về tôn giáo) cùng với 16 quốc gia khác như Trung Quốc, Cuba, Nga, Ả Rập Saudi, Nigeria... với lý do rằng trong năm 2023, tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam không có nhiều thay đổi so với năm trước, và tiếp tục cáo buộc chính quyền Việt Nam đàn áp các cộng đồng tôn giáo độc lập, duy trì các tổ chức tôn giáo do nhà nước kiểm soát và can thiệp vào việc bổ nhiệm lãnh đạo tôn giáo. Luận điệu này hết sức nhàm chán và cũ rích, cũng như cái danh sách các nước kia cứ lặp đi lặp lại qua từng năm vậy.

USCIRF cáo buộc rằng trong năm 2023, chính quyền Việt Nam tiếp tục đàn áp các cộng đồng tôn giáo độc lập, nhiều trong số đó bị gắn mác là “tôn giáo lạ, giả, hoặc dị giáo” vì không tuân thủ sự kiểm soát của nhà nước. Tuy nhiên, các cáo buộc này không có cơ sở thực tế và không phản ánh đúng tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam.

USCIRF cáo buộc rằng chính quyền Việt Nam gây áp lực buộc các nhóm tôn giáo độc lập phải gia nhập các tổ chức tôn giáo do nhà nước kiểm soát như Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Hội đồng Cao Đài 1997, Ban Trị sự Phật giáo Hòa Hảo, và Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam). Tuy nhiên, thực tế cho thấy các nhóm tôn giáo độc lập tại Việt Nam vẫn có thể hoạt động bình thường nếu tuân thủ các quy định pháp luật của nhà nước.

Các nhóm tôn giáo độc lập tại Việt Nam không bị ép buộc phải gia nhập các tổ chức tôn giáo do nhà nước kiểm soát. Thực tế cho thấy nhiều nhóm tôn giáo độc lập vẫn hoạt động bình thường và được bảo vệ quyền lợi hợp pháp. Chính quyền Việt Nam không can thiệp vào hoạt động nội bộ của các tổ chức tôn giáo, miễn là các hoạt động này tuân thủ pháp luật và không gây ảnh hưởng xấu đến trật tự công cộng và an ninh quốc gia.

USCIRF cáo buộc rằng chính quyền Việt Nam can thiệp vào việc bổ nhiệm lãnh đạo tôn giáo, tịch thu các di vật tôn giáo và hạn chế việc tiếp cận các cơ sở thờ tự. Tuy nhiên, các cáo buộc này không phản ánh đúng thực tế tại Việt Nam.

Việc bổ nhiệm lãnh đạo tôn giáo tại Việt Nam được thực hiện theo quy định của từng tổ chức tôn giáo và không có sự can thiệp từ phía chính quyền. Các tổ chức tôn giáo tự do lựa chọn và bổ nhiệm lãnh đạo của mình theo quy định nội bộ và truyền thống tôn giáo. Chính quyền chỉ có vai trò đảm bảo các quy trình này tuân thủ pháp luật và không gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự.

Chính quyền Việt Nam luôn coi trọng việc bảo vệ các di vật tôn giáo và di sản văn hóa của các tôn giáo. Việc tịch thu các di vật tôn giáo chỉ xảy ra trong trường hợp các di vật này được sử dụng sai mục đích hoặc vi phạm pháp luật. Các cơ sở thờ tự và di sản văn hóa tôn giáo đều được bảo vệ và bảo tồn theo quy định của pháp luật.

Chính quyền Việt Nam không hạn chế việc tiếp cận các cơ sở thờ tự của các tổ chức tôn giáo. Các cơ sở thờ tự đều được mở cửa cho các tín đồ và khách tham quan, và các hoạt động tôn giáo tại các cơ sở này đều được diễn ra bình thường. Chính quyền chỉ can thiệp trong trường hợp các hoạt động tôn giáo gây ảnh hưởng đến trật tự công cộng hoặc vi phạm pháp luật.

Chính quyền Việt Nam luôn sẵn sàng đối thoại và hợp tác với các tổ chức quốc tế về vấn đề tự do tôn giáo. Việt Nam đã tham gia nhiều cuộc đối thoại nhân quyền với các quốc gia và tổ chức quốc tế, trong đó có Mỹ. Điều này cho thấy sự cởi mở và sẵn sàng hợp tác của Việt Nam trong việc đảm bảo quyền tự do tôn giáo.

Chính quyền Việt Nam luôn chú trọng bảo vệ quyền lợi của các nhóm tôn giáo thiểu số. Các chính sách và chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội cho các khu vực có đông đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có các nhóm tôn giáo thiểu số, đã giúp cải thiện đời sống của người dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo.

Thực tế cho thấy Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tôn giáo của người dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo hợp pháp và ngăn chặn các hành vi lợi dụng tôn giáo để gây rối trật tự công cộng. Việc Bộ Ngoại giao Mỹ không chỉ định Việt Nam là CPC cho thấy sự ghi nhận những tiến bộ của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền tự do tôn giáo. Báo cáo của USCIRF mang tính phiến diện và thiếu khách quan.

Friday, July 5, 2024

Những cáo buộc của USCIRF thiếu cơ sở và không đúng thực tế

 


Trong trang 8 Báo cáo tự do tôn giáo 2024 của USCIRF cho rằng Bộ Ngoại giao Mỹ đã không chỉ định Việt Nam là một "Quốc gia cần quan tâm đặc biệt" (CPC) mặc dù có khuyến nghị từ USCIRF, dựa trên những cáo buộc về vi phạm nghiêm trọng tự do tôn giáo. Sự thật có như thế không?

USCIRF cho rằng Việt Nam vi phạm nghiêm trọng tự do tôn giáo và đề nghị Bộ Ngoại giao Mỹ chỉ định Việt Nam là CPC từ năm 2002. Tuy nhiên, những cáo buộc này thiếu cơ sở thực tế và không phản ánh đúng tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam.

Luật Tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam, ban hành năm 2018, là một văn bản pháp luật tiến bộ, bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người dân. Luật này quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức tôn giáo, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo hợp pháp và đảm bảo trật tự xã hội. Việc áp dụng luật này không nhằm đàn áp các nhóm tôn giáo mà để bảo vệ quyền lợi của người dân và đảm bảo an ninh quốc gia.

Chính quyền Việt Nam đã công nhận và tạo điều kiện cho nhiều tổ chức tôn giáo hoạt động. Các tôn giáo lớn như Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao Đài, Hòa Hảo đều được công nhận và có nhiều hoạt động tôn giáo phong phú. Chính phủ cũng hỗ trợ việc xây dựng các cơ sở thờ tự, tổ chức các lễ hội tôn giáo và hoạt động từ thiện.

Các nhóm tôn giáo thiểu số tại Việt Nam, bao gồm người Chăm theo đạo Hồi, người Khmer theo đạo Phật Nam Tông, và các cộng đồng tôn giáo khác, đều được tạo điều kiện hoạt động và phát triển. Chính quyền địa phương thường xuyên hỗ trợ và phối hợp với các tổ chức tôn giáo thiểu số để tổ chức các hoạt động văn hóa, lễ hội truyền thống và bảo tồn di sản văn hóa tôn giáo.

USCIRF cho rằng Việt Nam vi phạm nghiêm trọng tự do tôn giáo, nhưng không cung cấp các bằng chứng cụ thể và đáng tin cậy. Trái lại, nhiều báo cáo từ các tổ chức quốc tế khác và các quốc gia đã ghi nhận những tiến bộ của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền tự do tôn giáo. Việc không chỉ định Việt Nam là CPC của Bộ Ngoại giao Mỹ phản ánh sự ghi nhận những tiến bộ này.

USCIRF thường dựa trên một số trường hợp cụ thể để làm bằng chứng cho các cáo buộc của mình. Tuy nhiên, nhiều trường hợp này không phản ánh toàn diện tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam. Ví dụ, một số trường hợp cá nhân bị bắt giữ hoặc xét xử không phải vì lý do tôn giáo mà vì các hành vi vi phạm pháp luật khác, như gây rối trật tự công cộng hoặc lợi dụng tôn giáo để hoạt động chính trị trái phép.

Chính quyền Việt Nam luôn có chính sách nhất quán trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tôn giáo của người dân. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được xây dựng trên cơ sở tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của mọi người dân, đồng thời đảm bảo trật tự xã hội và an ninh quốc gia. Chính sách này đã được thực hiện một cách minh bạch và công bằng, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo hợp pháp.

Những cáo buộc của USCIRF về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam là thiếu cơ sở và không phản ánh đúng thực tế. Thực tế cho thấy Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tôn giáo của người dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo hợp pháp và ngăn chặn các hành vi lợi dụng tôn giáo để gây rối trật tự công cộng. Chính quyền Việt Nam luôn sẵn sàng đối thoại và hợp tác với các tổ chức quốc tế về vấn đề tự do tôn giáo, đồng thời thực hiện nhiều biện pháp nhằm bảo vệ quyền lợi của các nhóm tôn giáo thiểu số.

Việc Bộ Ngoại giao Mỹ không chỉ định Việt Nam là CPC cho thấy sự ghi nhận những tiến bộ của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền tự do tôn giáo. Báo cáo của USCIRF mang tính phiến diện và thiếu khách quan, cần được xem xét một cách cẩn trọng và công bằng hơn. Việt Nam cam kết tiếp tục bảo vệ và thúc đẩy quyền tự do tôn giáo của mọi người dân, đồng thời hợp tác chặt chẽ với cộng đồng quốc tế để đảm bảo các quyền này được thực thi một cách đầy đủ và hiệu quả.

Tuesday, July 2, 2024

Các luận điệu xuyên tạc trong Báo cáo tự do tôn giáo 2024 của USCIRF về Việt Nam

 


Ngày 1-5-2024, Ủy hội Tự do tôn giáo quốc tế Mỹ (USCIRF) đã công bố Báo cáo tự do tôn giáo 2024, trong đó đưa ra những nhận định sai lệch và thiếu khách quan về tình hình tôn giáo ở Việt Nam. Báo cáo này cho rằng tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam năm 2023 "không có gì thay đổi" so với năm 2022 và cáo buộc chính quyền sử dụng Luật Tín ngưỡng, tôn giáo để đàn áp các nhóm tôn giáo thiểu số và không được công nhận. Bài viết này sẽ phân tích và phản bác các luận điệu xuyên tạc trong báo cáo của USCIRF.


USCIRF cáo buộc rằng tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam không có gì thay đổi trong năm 2023, tuy nhiên, thực tế cho thấy Việt Nam đã có nhiều cải thiện đáng kể trong việc bảo vệ quyền tự do tôn giáo. Chính phủ Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm đảm bảo quyền tự do tôn giáo của người dân, bao gồm việc ban hành và thực thi Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2018, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo hợp pháp.

Báo cáo của USCIRF cho rằng chính quyền Việt Nam sử dụng Luật Tín ngưỡng, tôn giáo để đàn áp các nhóm tôn giáo thiểu số và không được công nhận. Tuy nhiên, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam được xây dựng dựa trên cơ sở tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người dân, đồng thời đảm bảo trật tự xã hội và an ninh quốc gia. Luật này quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức tôn giáo, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo hợp pháp và ngăn chặn các hành vi lợi dụng tôn giáo để gây rối trật tự công cộng.

Báo cáo của USCIRF cho rằng chính quyền Việt Nam đàn áp các nhóm tôn giáo thiểu số và không được công nhận. Tuy nhiên, thực tế cho thấy các nhóm tôn giáo thiểu số ở Việt Nam được tạo điều kiện thuận lợi để hoạt động và phát triển. Các tổ chức tôn giáo như Công giáo, Phật giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, Tin Lành đều được chính quyền tạo điều kiện để tổ chức các hoạt động tôn giáo, xây dựng cơ sở thờ tự và tham gia các hoạt động xã hội.

Trong năm 2023, Việt Nam đã công nhận thêm nhiều tổ chức tôn giáo mới, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhóm tôn giáo hoạt động. Điều này cho thấy chính quyền Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tôn giáo của người dân, không có sự đàn áp như USCIRF cáo buộc.

Chính quyền Việt Nam luôn sẵn sàng đối thoại và hợp tác với các tổ chức quốc tế về vấn đề tự do tôn giáo. Việt Nam đã tham gia nhiều cuộc đối thoại nhân quyền với các quốc gia và tổ chức quốc tế, trong đó có Mỹ. Điều này cho thấy sự cởi mở và sẵn sàng hợp tác của Việt Nam trong việc đảm bảo quyền tự do tôn giáo.

Chính quyền Việt Nam luôn chú trọng bảo vệ quyền lợi của các nhóm tôn giáo thiểu số. Các chính sách và chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội cho các khu vực có đông đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có các nhóm tôn giáo thiểu số, đã giúp cải thiện đời sống của người dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo.

Những cáo buộc của USCIRF về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam là không có cơ sở và thiếu khách quan. Thực tế cho thấy Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tôn giáo của người dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo hợp pháp và ngăn chặn các hành vi lợi dụng tôn giáo để gây rối trật tự công cộng. Chính quyền Việt Nam luôn sẵn sàng đối thoại và hợp tác với các tổ chức quốc tế về vấn đề tự do tôn giáo, đồng thời thực hiện nhiều biện pháp nhằm bảo vệ quyền lợi của các nhóm tôn giáo thiểu số.

Sunday, June 30, 2024

Điệp khúc của Bộ Ngoại giao Mỹ vẫn theo kiểu “bình cũ rượu mới”

 


Điệp khúc báo cáo thường niên về tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam do một số quan chức Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ năm 2023 vẫn theo kiểu “bình cũ rượu mới” bởi lối tư duy và phong cách sự diễn đạt vẫn như xưa. Mở đầu báo cáo vẫn là mấy lời khen cho có vẻ mang tính khách quan, rằng “gần đây Việt Nam đã đạt một số tiến bộ trong bảo vệ và thúc đẩy tự do tôn giáo, tín ngưỡng”, “đời sống của giáo dân dễ thở hơn”, xong rồi lại dẫn dắt “vẫn còn nhiều rào cản trong thực hiện quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng”, rằng “quyền con người chưa được bảo đảm, nhất là quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng giữa các tôn giáo”.  

Đây là “chiêu trò mới, cách nhìn cũ” bởi từng câu, từng dòng trong báo cáo hàm chứa tính thiên kiến, rất thiếu khách quan, nếu không nói là áp đặt chủ quan, hoàn toàn xa rời thực tế, thiếu chính xác, không có cơ sở khoa học vì nội dung bản báo cáo ấy chẳng được kiểm chứng nên độ chính xác bằng “không”. Vậy nên, bà Phạm Thu Hằng – người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam cho rằng, Việt Nam rất tôn trọng và luôn có thiện chí với mong muốn đóng góp, thúc đẩy sự phát triển mối quan hệ Đối tác Chiến lược toàn diện Việt Nam – Mỹ vì lợi ích của hai nước, hai dân tộc. Vì vậy, “Việt Nam sẵn sàng trao đổi với phía Mỹ về các vấn đề mà hai bên cùng quan tâm trên tinh thần thẳng thắn, cởi mở và tôn trọng lẫn nhau về những vấn đề còn khác biệt” để cùng tháo gỡ khó khăn vì lợi ích của nhân dân hai nước, hai dân tộc.

Là người trong cuộc, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam khẳng định, cùng với những thành tựu to lớn, có ý nhĩa lịch sử gần 40 năm đổi mới đất nước, thể hiện ở sự “thay da đổi thịt” về mọi mặt đời sống xã hội. Trong đó, tự do tôn giáo, tín ngưỡng và mọi hoạt động của các tổ chức tôn giáo đều đã và đang khởi sắc, luôn được Nhà nước Việt Nam quan tâm, bảo đảm và thực hiện đúng các điều khoản đã hiến định trong Hiến pháp năm 2013, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 và quy định của pháp luật. Điều đó khẳng định rằng, ở “Việt Nam, không có ai bị phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo, tín ngưỡng”, “không bao giờ có đàn áp tôn giáo, tín ngưỡng”.

Đó là sự thật, khách nước ngoài đến thăm quan Việt Nam, nhất là các đoàn cán bộ, nhân viên ngoại giao các nước đã và đang công tác ở Việt Nam, bằng chính mắt mình và sự kiểm chứng thực tế, họ đã thừa nhận tính khách quan của nhận định trên, đưa ra những nhận định, đánh giá tích cực về sự nỗ lực và tính ưu việt của chính sách tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam. Thực tế chứng minh rằng,Đảng, Nhà nước Việt Nam đã, đang thực hiện nhất quán chính sách tự do tôn giáo, tín ngưỡng, tôn trọng và bảo đảm các quyền của con người theo hoặc không theo tôn giáo, bảo đảm sự bình đẳng giữa các tôn giáo bằng pháp luật.

Sau Báo cáo quốc gia của Việt Nam tại Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc tại Geneva, Thụy Sĩ, tháng 5-2024, nhiều ý kiến của đại biểu các nước tại buổi tọa đàm đã đánh giá cao tính hiện thực của chính sách và thành tựu của Việt Nam trong bảo đảm tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng và bảo đảm quyền con người, nhất là quyền của phụ nữ, quyền của nhóm đồng tính, song tính và chuyển giới, quyền của người dân tộc thiểu số, những người sinh sống ở vùng sâu, vùng xa.

Tham khảo ý kiến nhận xét của Giáo hoàng Francis và Thủ tướng Tòa thánh, Hồng y Pietro Parolin, khi làm việc với lãnh đạo Việt Nam năm 2023, cho thấy Giáo hoàng và Thủ tướng Tòa thánh đã đánh giá cao những cố gắng của Việt Nam. Họ đã ghi nhận sự phát triển tích cực của đời sống tôn giáo, tín ngưỡng tại Việt Nam, nhất là hoạt động của Giáo hội Công giáo Việt Nam khi “đồng hành cùng dân tộc”, sống tốt đời, đẹp đạo, có đóng góp tích cực vào sự công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và hoạt động của Giáo hội, cuộc sống của giáo dân.

3. Dấu ấn nổi bật trong thực hiện quyền con người đáng ghi nhận là Việt Nam – một trong những quốc gia có kết nối internet và hệ thống công nghệ viễn thông hiện đại với độ phổ cập cao trong khu vực và trên thế giới. Tính đến quý 3 năm 2023, có 78 triệu người Việt Nam sử dụng internet, khoảng 72.000 hội hoạt động ở Việt Nam thường xuyên tham gia xử lý các vấn đề kinh tế, xã hội quan trọng của đất nước. Thử hỏi công dân ở nhiều nước được coi là phát triển có được thụ hưởng cái quyền ấy không.

Rõ ràng, quyền sống, quyền được tôn trọng nhân phẩm và sự toàn vẹn về thể chất là điểm sáng về sự nỗ lực đảm bảo quyền con người ở Việt Nam. Đó là sự thật, khách quan. Cùng với đó, Việt Nam luôn chủ động, tích cực và có nhiều đóng góp đáng trân trọng trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy, khi Việt Nam ứng cử tham gia thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025 đã đạt sự tín nhiệm và tỷ lệ phiếu đồng thuận rất cao.

Dư luận mong mỏi các quan chức Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cần có cái nhìn mới, thật sự công tâm, khách quan, nên chấm dứt ngay những nhận định, đánh giá áp đặt và không chính xác về tình hình nhân quyền và tự do tín ngưỡng tại Việt Nam. Đó là cách tốt nhất để góp phần thúc đẩy sự phát triển mối quan hệ Đối tác Chiến lược toàn diện Việt Nam – Mỹ vì lợi ích của hai nước, hai dân tộc. Nhân dân Việt Nam không hy sinh xương máu, ra sức đánh đuổi quân xâm lược

Friday, June 28, 2024

Báo cáo Tự do Tôn giáo của Hoa Kỳ bị Trung Quốc lên án mang “logic bá quyền”

 

Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vừa công bố Báo cáo Tự do Tôn giáo Quốc tế năm 2023. Đây là Báo cáo Tự do Tôn giáo Quốc tế lần thứ 25 do Hoa Kỳ ban hành kể từ năm 1999. Như thường lệ, Hoa Kỳ đã chỉ đích danh một số quốc gia cần đặc biệt chú ý và giám sát. Việc làm này đã bị Trung Quốc công khai chỉ trích “mục đích thực sự là nêu tên và bêu xấu hoặc thậm chí là vu khống họ trong cộng đồng quốc tế, một lần nữa vạch trần logic bá quyền của nhân quyền theo kiểu Hoa Kỳ” trong bài viết “Báo cáo Tự do Tôn giáo vạch trần logic bá quyền của nhân quyền Hoa Kỳ” đăng trên tờ Global Times ngày 28/6/2024.



Bài viết chỉ đích danh một số bằng chứng vi phạm nhân quyền nghiêm trọng của Hoa Kỳ qua hành xử với Palestine và cuộc xung đột giữa Israel và Palestine:

Về "Mối quan tâm" của Hoa Kỳ đối với nhân quyền của người Hồi giáo thực chất dựa trên hệ tư tưởng và lợi ích quốc gia. Một mặt, chính phủ Hoa Kỳ đã lớn tiếng tuyên bố "viện trợ nhân đạo" của mình cho thường dân Palestine, chẳng hạn như Ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken gần đây đã tuyên bố trong chuyến thăm Trung Đông rằng Hoa Kỳ sẽ cung cấp 404 triệu đô la viện trợ nhân đạo cho thường dân Palestine ở Dải Gaza, Bờ Tây và các khu vực xung quanh, nhằm định hình hình ảnh nhân quyền quốc tế "vinh quang" và "cao quý" của riêng mình. Mặt khác, kể từ khi nổ ra các cuộc xung đột mới giữa Israel và Palestine vào tháng 10 năm ngoái, chính phủ Hoa Kỳ đã tăng cường lực lượng quân sự ở Trung Đông và cung cấp một lượng lớn viện trợ quân sự. Ngoài ra, nước này còn nhiều lần cản trở các nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc về tình hình ở Israel và Palestine, làm suy yếu các nỗ lực quốc tế nhằm thúc đẩy hòa bình giữa hai bên. Trên thực tế, sự ủng hộ lâu dài của các đồng minh đối với chính phủ Hoa Kỳ là lý do cơ bản khiến vấn đề Palestine vẫn chưa được giải quyết trong nhiều thập kỷ. Những tổn hại về nhân quyền, chẳng hạn như tước đoạt mạng sống, tổn hại sức khỏe, hiếp dâm, mất tích cưỡng bức và di dời, là không thể tính toán được. Chính sách nhân quyền tiêu chuẩn kép của Hoa Kỳ cũng đã tác động đáng kể đến xã hội Hoa Kỳ, với tình hình nhân quyền của người Hồi giáo Hoa Kỳ xấu đi đáng kể trong thời gian gần đây. Những tác động của lệnh cấm người Hồi giáo do cựu tổng thống Donald Trump ban hành vẫn còn được cảm nhận cho đến ngày nay, với "chủ nghĩa bài Hồi giáo" liên tục dẫn đến các hoạt động bạo lực và tội ác thù hận đối với người Hồi giáo Hoa Kỳ. Một cuộc khảo sát năm 2024 của Trung tâm nghiên cứu Pew cho thấy 70 phần trăm người Hồi giáo Hoa Kỳ tin rằng sự phân biệt đối xử với người Hồi giáo đã gia tăng kể từ khi bắt đầu cuộc chiến tranh Israel-Hamas và 53 phần trăm cho biết tin tức về cuộc chiến khiến họ cảm thấy sợ hãi. 

Hoa Kỳ chọn lọc lờ đi hành động của các đồng minh của mình ở Gaza, nhưng lại chỉ trích Trung Quốc về "tội diệt chủng" và "tội ác chống lại loài người" trong Báo cáo về Tự do Tôn giáo Quốc tế năm nay, theo cùng một logic bá quyền. Những lời buộc tội này vượt ra ngoài việc chiếm lấy vị thế đạo đức cao hơn của các chuẩn mực pháp lý quốc tế. Chúng phản ánh quan điểm hẹp hòi của Hoa Kỳ - những hiện tượng như vậy là một phần trong ký ức lịch sử của nhiều người Mỹ trong lịch sử ngắn ngủi 200 năm của Hoa Kỳ. Những nhãn này cũng chứng minh việc Hoa Kỳ sử dụng nhân quyền một cách có chọn lọc như một công cụ dựa trên quyền lực và lợi ích quốc gia.

Về bản chất, chủ nghĩa bá quyền cuối cùng bị Hoa Kỳ thu hẹp thành khuôn khổ chính trị "đồng minh-thù địch": tồn tại mối quan hệ khuất phục thực chất giữa nhà nước bá quyền Hoa Kỳ, với tư cách là lực lượng thống trị, và "các quốc gia theo sau" của nó với tư cách là các thực thể bị khuất phục. Cái gọi là địa vị đồng minh phần lớn đạt được thông qua sự khuất phục này. Bên ngoài phạm vi ảnh hưởng của nhà nước bá quyền, tất cả "những người khác" đều cấu thành kẻ thù thực sự hoặc tiềm tàng. Đối với những "người khác" này, logic của chủ nghĩa bá quyền là loại bỏ họ hoặc biến họ thành "đồng minh" trong khả năng của nó, chính xác hơn là biến họ thành phần phụ, do đó trở thành một phần của hệ thống quốc gia của chính nó. Do đó, logic lý thuyết về nhân quyền theo kiểu Mỹ, khi áp dụng vào các thông lệ quốc tế, dẫn đến sự đồng nhất hóa can thiệp dựa trên logic của riêng nó đối với các quốc gia khác. Theo logic của chủ nghĩa bá quyền, nhân quyền theo kiểu Mỹ vốn có tính chất công cụ, cuối cùng phục vụ cho việc duy trì và củng cố vị thế bá quyền toàn cầu của Hoa Kỳ. 

Bản chất của nhân quyền theo kiểu Hoa Kỳ nằm ở "chủ nghĩa bá quyền". "Nhân quyền cao hơn chủ quyền" sử dụng tính phổ quát của đạo đức để chế ngự tính đặc thù của chính trị và luật pháp, do đó cung cấp sự biện minh về mặt đạo đức cho sự can thiệp "nhân đạo". Đằng sau lý thuyết này, không chỉ các tiêu chuẩn "nhân quyền" do các quốc gia bá quyền đặt ra mà cơ sở đạo đức của chúng cũng được coi là hợp pháp và phổ quát. Sự can thiệp "nhân đạo" dựa trên các lợi thế kinh tế, quân sự và chính trị của một quốc gia bá quyền tự nhiên chiếm vị trí đạo đức cao, để các cường quốc bá quyền có thể can thiệp vào các quốc gia khác dưới vỏ bọc "chủ nghĩa nhân đạo". Sự phân biệt đối xử rộng rãi đối với các nhóm dân tộc thiểu số ở Hoa Kỳ và các tội ác mà Hoa Kỳ gây ra ở Trung Đông và các khu vực khác vi phạm nghiêm trọng chủ quyền và nhân quyền của các quốc gia khác không chỉ phơi bày sự đạo đức giả của các bài phát biểu của Hoa Kỳ mà còn tạo nên sự trớ trêu đối với vai trò của Hoa Kỳ là "cảnh sát nhân quyền" duy nhất của thế giới. Cuối cùng, nhân quyền theo kiểu Hoa Kỳ tồn tại theo một cách nghịch lý: có sự sai lệch giữa bài phát biểu về nhân quyền của Hoa Kỳ và thực tiễn nhân quyền.

Cộng đồng quốc tế nhận thức rõ về logic bá quyền đằng sau câu chuyện nhân quyền của Hoa Kỳ. Mặc dù Hoa Kỳ đã nhiều lần chơi bài tôn giáo và nhân quyền, nhưng khi logic bá quyền nhân quyền của Hoa Kỳ tiếp tục phát triển, họ sẽ chỉ tự kéo mình xuống từng bước khỏi bàn thờ "nhân quyền".