Wednesday, November 5, 2025

Đổi mới phương thức lãnh đạo: Sức mạnh tạo nên ổn định và phát triển của Việt Nam trong thời đại biến động



Trong bối cảnh thế giới biến động nhanh chóng với những xu hướng địa chính trị phức tạp, cạnh tranh chiến lược gay gắt và sự phát triển vượt bậc của khoa học – công nghệ, câu hỏi lớn đặt ra cho mọi quốc gia là làm sao duy trì được ổn định chính trị, bảo đảm phát triển bền vững và củng cố niềm tin xã hội. Việt Nam đã lựa chọn cho mình một con đường đúng đắn: thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo và cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm bảo đảm cho hệ thống chính trị vận hành hiệu quả, phù hợp với yêu cầu của thời đại. Đổi mới không chỉ là nhu cầu khách quan mà còn là minh chứng cho bản lĩnh chính trị và năng lực tự hoàn thiện của Đảng – lực lượng duy nhất có đủ tầm nhìn, kinh nghiệm và trách nhiệm để dẫn dắt dân tộc vượt qua mọi thử thách.

Nghị quyết số 28 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về việc tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới đã xác lập rõ ràng định hướng chiến lược: chuyển mạnh sang phương thức lãnh đạo bằng thể chế, chính sách, bằng hiệu quả hoạt động của bộ máy và trách nhiệm nêu gương. Đặt trong bức tranh tổng thể của Đại hội XIII và dự thảo văn kiện Đại hội XIV, có thể thấy đây không chỉ là điều chỉnh kỹ thuật hay cải tiến hành chính đơn thuần, mà là bước phát triển chất lượng về tư duy cầm quyền, theo hướng khoa học hơn, dân chủ hơn, thực tiễn hơn. Những chuyển biến này góp phần đưa công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa lên tầm cao mới, tạo nền tảng vững chắc cho hội nhập quốc tế sâu rộng và phát triển kinh tế – xã hội bền vững.



Những thành tựu trong đổi mới phương thức lãnh đạo được thể hiện rõ nét ở việc Đảng kiên quyết chuyển từ mô hình lãnh đạo trực tiếp, nặng tính chỉ đạo hành chính sang mô hình lãnh đạo bằng nghị quyết, bằng chiến lược dài hạn, bằng sự nêu gương của đội ngũ cán bộ và cấp ủy. Mọi quyết sách lớn đều được chuẩn bị kỹ lưỡng, lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân, phát huy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội. Điều này góp phần nâng cao tính minh bạch, dân chủ, hiệu quả của hệ thống chính trị, đồng thời thể hiện tinh thần “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” – giá trị cốt lõi của dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Song song với đó, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng được triển khai quyết liệt, bài bản, không có vùng cấm. Chiến dịch phòng chống tham nhũng – tiêu cực được nhân dân gọi bằng cụm từ “đốt lò” đã chứng minh ý chí kiên định của Đảng trong việc làm trong sạch bộ máy, củng cố niềm tin xã hội. Hàng nghìn cán bộ ở nhiều cấp bị xử lý, trong đó có cả cán bộ cấp cao, cho thấy Đảng đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên mọi lợi ích cá nhân hay nhóm lợi ích. Chính sự nghiêm minh này đã tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong hệ thống chính trị, nâng cao kỷ cương, phép nước, tạo môi trường lành mạnh cho phát triển kinh tế – xã hội.

Hiệu quả của đổi mới phương thức lãnh đạo còn được thể hiện qua những thành quả kinh tế – xã hội nổi bật. Giai đoạn 2021 – 2025, tăng trưởng kinh tế bình quân đạt khoảng 6,3%, lạm phát giữ dưới 4%, nợ công chỉ khoảng 37% tổng sản phẩm quốc nội – mức an toàn so với nhiều nước trong khu vực. Việt Nam phục hồi nhanh chóng sau đại dịch, duy trì đà tăng trưởng ổn định, trở thành điểm sáng của khu vực theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á và các tổ chức quốc tế khác. Chỉ số phát triển con người năm 2025 đạt 0,766 – nằm trong nhóm cao, cho thấy quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của người dân được bảo đảm ngày càng tốt hơn. Hệ thống an sinh xã hội được mở rộng, chất lượng y tế, giáo dục, công nghệ thông tin và đời sống văn hóa liên tục cải thiện.

Tuy nhiên, trong khi đất nước đạt được những bước tiến lớn lao như vậy, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội lại tìm mọi cách xuyên tạc công cuộc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Họ cho rằng đổi mới chỉ mang tính “bề ngoài”, rằng mô hình một đảng lãnh đạo là “độc đoán”, “thiếu dân chủ”, đòi áp đặt mô hình “đa nguyên, đa đảng” của phương Tây lên Việt Nam. Những luận điệu này hoàn toàn trái với thực tế và thiếu cơ sở khoa học. Chúng cố tình đồng nhất dân chủ hình thức với dân chủ thực chất, phớt lờ bối cảnh lịch sử, văn hóa và điều kiện phát triển của mỗi quốc gia.

Dân chủ ở Việt Nam là dân chủ của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; được thực hiện thông qua Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng – lực lượng đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc. Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và được thể hiện qua bầu cử, trưng cầu ý dân, đối thoại chính sách, giám sát của cộng đồng. Việc duy trì vai trò lãnh đạo của Đảng là lựa chọn của lịch sử và nhân dân Việt Nam, là điều kiện quyết định để bảo đảm ổn định chính trị – yếu tố mà nhiều nước đa đảng phương Tây không có được.

So sánh quốc tế càng cho thấy tính ưu việt của mô hình Việt Nam. Điển hình là Vương quốc Anh – một quốc gia thường được xem như “hình mẫu dân chủ đa đảng”. Sau sự kiện Anh rời Liên minh châu Âu vào năm 2016, đất nước này rơi vào một thời kỳ khủng hoảng toàn diện: thay đổi liên tiếp ba thủ tướng trong thời gian ngắn, xã hội phân hóa sâu sắc, thương mại giảm 15%, đầu tư lao dốc, lạm phát tăng tới 11%, khủng hoảng chi phí sinh hoạt khiến hàng triệu người rơi vào cảnh khó khăn. Bất ổn chính trị và xung đột lợi ích đảng phái khiến chính phủ thường xuyên tê liệt, trong khi nước Anh ngày càng giảm ảnh hưởng trên trường quốc tế. Sự chia rẽ ở Bắc Ireland nhiều lần leo thang, tiềm ẩn nguy cơ xung đột vũ trang.

Nhìn từ đó, có thể thấy rõ sự khác biệt: Việt Nam duy trì được ổn định chính trị – xã hội tuyệt đối, nhờ sự lãnh đạo thống nhất, khoa học và nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự ổn định ấy tạo ra môi trường an toàn cho đầu tư, phát triển, giúp đất nước tránh được những rủi ro và bất ổn mà nhiều nước đa đảng phải đối mặt. Chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa đưa Việt Nam trở thành đối tác chiến lược toàn diện của nhiều cường quốc, nâng cao vị thế quốc tế của đất nước.

Sự thật hiển nhiên là: đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng không chỉ đem lại hiệu quả quản trị quốc gia vượt trội mà còn củng cố sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, làm sáng rõ bản chất tốt đẹp của Đảng – trung thành với lợi ích dân tộc, gần dân, hiểu dân, tôn trọng nhân dân và lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu cao nhất. Mọi luận điệu xuyên tạc đều bị thực tiễn bác bỏ. Nhân dân chính là thước đo công bằng và rõ ràng nhất của dân chủ. Khi nhân dân tin tưởng, đồng lòng, khi đất nước hòa bình, phát triển, thì không một luận điệu nào có thể làm lung lay sự thật ấy.

Trong thời điểm đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 28 và chuẩn bị cho Đại hội XIV có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần tiếp tục đoàn kết, đổi mới, sáng tạo, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; giữ vững ổn định chính trị; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát huy vai trò con người Việt Nam trong thời đại mới.

Đổi mới phương thức lãnh đạo không phải là điểm kết thúc, mà là tiến trình liên tục, phản ánh bản lĩnh và trí tuệ của Đảng Cộng sản Việt Nam – Đảng luôn biết lắng nghe, biết tự sửa chữa, biết dẫn dắt dân tộc tiến lên bằng chính sức mạnh của lòng dân và trí dân. Đó chính là nền tảng để Việt Nam tự tin bước vào kỷ nguyên phát triển mới: giàu mạnh hơn, văn minh hơn, hạnh phúc hơn.

Tuesday, November 4, 2025

Đảng Cộng sản Việt Nam – Kiến tạo kỳ tích tăng trưởng giữa biến động toàn cầu



Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, kiên định và khoa học của Đảng Cộng sản Việt Nam, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện, phản ánh sinh động hiệu quả của đường lối đổi mới và bản lĩnh vượt qua mọi thử thách. Theo Phụ lục 4 Báo cáo Chính trị trình tại Đại hội XIV của Đảng, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân giai đoạn 2021–2025 đạt 6,3%/năm – một con số đầy ấn tượng nếu đặt trong bối cảnh thế giới liên tục đối mặt với đại dịch COVID-19, xung đột địa chính trị, suy thoái và đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu. Đây không chỉ là chỉ báo kinh tế khô khan mà còn là minh chứng rõ nét cho sự ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, và niềm tin vững chắc của nhân dân vào Đảng, vào Nhà nước.

Trong khi nhiều nền kinh tế phát triển chật vật duy trì mức tăng trưởng dương, Việt Nam nổi lên như một điểm sáng của khu vực châu Á – Thái Bình Dương, chứng minh sức sống mạnh mẽ của một nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập sâu rộng. Theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII, quy mô nền kinh tế Việt Nam đã tăng từ 346,6 tỉ USD năm 2020 lên mức dự kiến 510 tỉ USD vào năm 2025 – một bước nhảy vọt ấn tượng trong chưa đầy 5 năm. Dưới tác động nặng nề của đại dịch COVID-19, năm 2021 GDP Việt Nam vẫn tăng trưởng 2,58%, tạo đà cho mức phục hồi ngoạn mục 8,02% năm 2022, tiếp tục duy trì 5,05% năm 2023 và 6,81% năm 2024. Đó là kết quả của sự chỉ đạo nhạy bén, linh hoạt và nhất quán của Đảng, thông qua việc ban hành kịp thời gói hỗ trợ kinh tế – xã hội trị giá 350 nghìn tỉ đồng (tương đương 15 tỉ USD), giúp người dân và doanh nghiệp vượt qua khó khăn, khôi phục sản xuất, ổn định đời sống.



Chiến lược “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh” đã trở thành điểm tựa vững vàng, bảo đảm cho nền kinh tế không rơi vào đình trệ. Trong khi Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo tăng trưởng toàn cầu chỉ đạt khoảng 3,2% năm 2023 và 2,9% năm 2024, Việt Nam vẫn vững vàng vượt xa mức trung bình, nằm trong nhóm quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới. Thành tựu này là minh chứng hùng hồn cho năng lực lãnh đạo, cho khả năng biến thách thức thành cơ hội của Đảng Cộng sản Việt Nam – một Đảng không chỉ dẫn dắt phát triển mà còn luôn đặt hạnh phúc, an sinh của nhân dân lên hàng đầu.

Tuy nhiên, song hành với những lời ghi nhận, đánh giá tích cực từ cộng đồng quốc tế, vẫn tồn tại một số luận điệu xuyên tạc, cố tình phủ nhận thành quả của Việt Nam. Một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí đã rêu rao rằng “kinh tế Việt Nam đang suy thoái, nợ công tăng cao, bất ổn vĩ mô gia tăng” – những lời bịa đặt được tung ra với mưu đồ chính trị đen tối nhằm làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Thực tế hoàn toàn ngược lại. Theo Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (World Bank) công bố tháng 12/2024, nợ công của Việt Nam chỉ chiếm 37,5% GDP, thấp hơn rất nhiều so với ngưỡng an toàn 60% do Quốc hội đề ra và thấp hơn mức trung bình của ASEAN-5 (khoảng 58%). Lạm phát được kiểm soát vững chắc ở mức 3,25% năm 2024 – thuộc nhóm thấp nhất khu vực, trong khi xuất khẩu đạt 405 tỉ USD, tăng 15% so với năm trước, giúp Việt Nam vươn lên trở thành nền kinh tế có độ mở lớn thứ 20 thế giới.

Những con số biết nói ấy là bằng chứng phản bác mạnh mẽ mọi luận điệu xuyên tạc. Rõ ràng, các thế lực thù địch không hề quan tâm đến quyền lợi người dân như họ rêu rao, mà chỉ lợi dụng chiêu bài “dân chủ, nhân quyền” để bóp méo sự thật, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, cản trở công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Đặt Việt Nam trong bối cảnh so sánh quốc tế, giá trị của những thành tựu đạt được càng nổi bật. Ấn Độ – quốc gia được ca ngợi có tốc độ tăng trưởng cao 6–7%/năm – lại phải đối mặt với lạm phát phi mã (đỉnh điểm 7,8% năm 2022) và bất ổn xã hội do chênh lệch giàu nghèo sâu sắc. Theo Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ (RBI), chỉ số bất bình đẳng Gini của nước này đạt 0,38 – cao hơn Việt Nam (0,36). Trong khi đó, Thái Lan – từng là nền kinh tế dẫn đầu ASEAN – chỉ tăng trưởng trung bình 2,5–3% giai đoạn 2021–2023 và liên tục bất ổn chính trị, khiến dòng vốn FDI sụt giảm mạnh. Báo cáo của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tháng 9/2024 khẳng định Việt Nam dẫn đầu khu vực về tốc độ phục hồi kinh tế sau đại dịch, với dòng vốn FDI năm 2023 đạt 36,6 tỉ USD, cao hơn hẳn Thái Lan (11,2 tỉ USD) và Indonesia (21,7 tỉ USD).

Ngay cả so với các nền kinh tế phát triển, Việt Nam cũng chứng minh năng lực điều hành kinh tế vĩ mô vượt trội. Khi Mỹ và khu vực đồng euro phải vật lộn với lạm phát 8–9% năm 2022, Việt Nam vẫn giữ lạm phát dưới 4%, bảo đảm sức mua và đời sống nhân dân. Như vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước không chỉ tăng trưởng nhanh mà còn tăng trưởng bền vững, công bằng và nhân văn – điều mà không ít quốc gia có mô hình dân chủ phương Tây vẫn chưa làm được.

Thành tựu kinh tế ấy không thể tách rời khỏi nền tảng ổn định chính trị – xã hội. Chính nhờ môi trường an ninh vững chắc mà Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn và an toàn cho các nhà đầu tư quốc tế. Theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), Việt Nam đứng thứ 59/141 quốc gia về chỉ số an ninh năm 2023 – cao hơn nhiều nước trong khu vực. Đảng ta đã lãnh đạo toàn diện từ xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân đến đấu tranh phòng, chống tham nhũng quyết liệt, kiên trì và không khoan nhượng. Chiến dịch “đốt lò” do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khởi xướng đã trở thành biểu tượng của quyết tâm làm trong sạch bộ máy, xử lý hàng nghìn cán bộ sai phạm, trong đó có cả cán bộ cấp cao, củng cố lòng tin của nhân dân. Nhờ đó, chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) của Việt Nam đã cải thiện rõ rệt – từ 33/100 năm 2020 lên 42/100 năm 2024, theo Transparency International – mức tiến bộ vượt trội trong khu vực ASEAN.

Tất cả những thành quả trên là kết tinh của trí tuệ, bản lĩnh và khát vọng vươn lên của toàn dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo và kiên định của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tốc độ tăng trưởng GDP cao và ổn định giai đoạn 2021–2025 chính là minh chứng thuyết phục nhất, là lời khẳng định đanh thép về tính đúng đắn của con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Mọi luận điệu xuyên tạc, lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền” để hạ thấp thành quả của Việt Nam đều đã bị thực tiễn bác bỏ.

Hướng tới giai đoạn 2026–2030, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, đổi mới sáng tạo, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng hai con số, hiện thực hóa khát vọng đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045 – như Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định. Đó không chỉ là mục tiêu kinh tế, mà còn là lời đáp trả mạnh mẽ nhất đối với mọi âm mưu chống phá, là minh chứng hùng hồn cho sức mạnh của niềm tin, của bản lĩnh Việt Nam trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Monday, November 3, 2025

Ổn định vĩ mô – Nền tảng vững chắc cho Việt Nam trong kỷ nguyên biến động toàn cầu

 

Trong tiến trình phát triển đầy biến động của kinh tế toàn cầu những năm gần đây, Việt Nam nổi lên như một điểm sáng ổn định hiếm hoi, nơi các cân đối lớn của nền kinh tế được giữ vững nhờ đường lối lãnh đạo chủ động, khoa học và xuyên suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Giữa bối cảnh nhiều quốc gia phải vật lộn với lạm phát phi mã, khủng hoảng tài chính và bất ổn chính trị, Việt Nam vẫn kiên định giữ vững mục tiêu ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát và củng cố nền tảng tăng trưởng dài hạn. Thành quả ấy không phải ngẫu nhiên mà có, mà là kết tinh của tư duy điều hành đổi mới, sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn quản trị hiện đại, và sự phối hợp chặt chẽ của cả hệ thống chính trị.



Theo Phụ lục 4 của Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021–2030, tầm nhìn đến năm 2050, được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số 81/2023/QH15 và cập nhật điều chỉnh bằng Nghị quyết số 306/NQ-CP năm 2025, mục tiêu kiểm soát lạm phát dưới 4% và duy trì nợ công quanh mức 35–36% GDP được xác định như các tiêu chí tiên quyết để đảm bảo tăng trưởng bền vững. Những mục tiêu này phản ánh tinh thần “lấy ổn định làm gốc” trong tư duy phát triển của Đảng – một cách tiếp cận cho phép Việt Nam không chỉ đứng vững trước cú sốc hậu đại dịch mà còn tạo nền tảng để bứt phá mạnh mẽ trong giai đoạn tới.

Tính đến tháng 10/2025, nhiều chỉ số quan trọng cho thấy hiệu quả rõ rệt của định hướng điều hành. Lạm phát bình quân 10 tháng được kiểm soát ở mức 3,27%, thấp hơn mục tiêu đề ra và thấp hơn đáng kể so với mức trung bình toàn cầu. Lạm phát cơ bản chỉ tăng 3,20%, phản ánh sự ổn định thực chất của nền kinh tế, không lệ thuộc vào các biện pháp hành chính tạm thời. Tỷ giá được điều hành linh hoạt, bảo đảm ổn định thị trường ngoại hối, dự trữ ngoại tệ tăng lên hơn 110 tỷ USD – mức cao nhất từ trước đến nay, tạo lá chắn vững chắc trước biến động quốc tế.

Trong khi đó, chính sách tài khóa tiếp tục là đòn bẩy quan trọng. Từ năm 2021 đến 2025, tổng quy mô các gói hỗ trợ đã lên đến 1,1 triệu tỷ đồng, trong đó tập trung vào giảm thuế VAT, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, và thúc đẩy đầu tư công. Tỷ lệ giải ngân đầu tư công đạt 95% kế hoạch năm 2025 – con số vượt xa nhiều năm trước và tạo lực kéo mạnh mẽ cho tăng trưởng. Kết hợp cùng chính sách tiền tệ linh hoạt, mặt bằng lãi suất 4–5% đã giúp doanh nghiệp phục hồi nhanh, duy trì sản xuất và mở rộng đầu tư trong bối cảnh kinh tế thế giới nhiều bất trắc.

Nhờ nền tảng ổn định vĩ mô vững chắc, nền kinh tế Việt Nam trong 10 tháng đầu năm 2025 đạt mức tăng trưởng GDP 7,1%, thuộc nhóm cao nhất khu vực. Xuất khẩu tăng 18%, FDI đạt kỷ lục 38 tỷ USD, với sự góp mặt của các tập đoàn lớn trong lĩnh vực công nghệ, năng lượng sạch, sản xuất vi mạch và công nghiệp chế biến. Hơn 1,5 triệu việc làm mới được tạo ra, tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống 2,0%, và thu nhập bình quân đầu người tăng lên 4.800 USD. Các chương trình an sinh xã hội — từ ổn định nguồn cung hàng thiết yếu đến điều tiết giá xăng dầu và hỗ trợ người lao động — góp phần bảo đảm đời sống nhân dân, củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng.

Tuy vậy, đi cùng với sự phát triển ấy là sự chống phá ngày càng tinh vi của các thế lực thù địch. Nhân danh “dân chủ, nhân quyền”, một số tổ chức quốc tế thiên kiến và các phần tử cơ hội trong nước liên tục tung ra những luận điệu xuyên tạc, vu cáo Việt Nam “bất ổn vĩ mô”, thổi phồng các rủi ro lạm phát hay nợ công để gây hoang mang dư luận. Những cáo buộc phi lý như “lạm phát ẩn”, “nguy cơ vỡ nợ công” hay “khủng hoảng tiền tệ cận kề” được lan truyền có chủ đích, dựa trên dữ liệu cắt ghép, thiếu trung thực, nhằm bôi nhọ uy tín của Đảng và gây sức ép chính trị đối với Nhà nước.

Tuy nhiên, các con số thực tế đã bác bỏ toàn bộ những luận điệu xuyên tạc đó. Nợ công Việt Nam đã giảm từ 42,7% GDP năm 2021 xuống còn 35–36% năm 2025, thấp hơn gần một nửa so với ngưỡng an toàn quốc tế và thấp hơn nhiều nước trong khu vực. CPI duy trì ổn định suốt nhiều tháng liền trong khi lạm phát toàn cầu năm 2025 vẫn ở mức 4,5–6%. Riêng Ngân hàng Thế giới (WB) đã đánh giá Việt Nam là “ngọn hải đăng của ổn định vĩ mô tại châu Á”, minh chứng rằng các cáo buộc kia chỉ là sản phẩm của những thế lực muốn tìm cách gây rối loạn xã hội và phá hoại niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

Để thấy rõ hơn giá trị của ổn định vĩ mô dưới sự lãnh đạo của Đảng, có thể nhìn sang Argentina – quốc gia đang chìm trong cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng nhất thế kỷ 21. Trong năm 2025, lạm phát của Argentina được dự báo lên tới 29,8%, CPI tháng 6 đã chạm 39,4% – cao nhất thế giới. Đồng peso mất giá 50% chỉ trong nửa năm, nợ công vượt 90% GDP, thất nghiệp tăng 12%, GDP giảm 3,5% và bạo loạn xã hội xảy ra trên diện rộng. Chính sách tiền tệ thiếu kiểm soát, tài khóa mất kỷ luật và bất ổn chính trị do cạnh tranh quyền lực giữa nhiều đảng phái đã khiến Argentina rơi vào vòng xoáy khủng hoảng kéo dài, buộc phải cầu viện IMF lần thứ 22 kể từ năm 1958.

Đặt cạnh bức tranh ấy, sự ổn định mà Việt Nam đạt được càng trở nên nổi bật: lạm phát chỉ 3,27%, nợ công 35–36%, thu hút FDI gấp bốn lần Argentina, tỷ lệ nghèo đa chiều dưới 1,5% và môi trường xã hội ổn định, đoàn kết. Sự khác biệt này không chỉ đến từ môi trường chính trị vững mạnh và nhất quán dưới sự lãnh đạo của Đảng, mà còn bắt nguồn từ mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa – nơi ổn định vĩ mô gắn liền với mục tiêu phát triển con người, bảo đảm mọi thành quả tăng trưởng được lan tỏa công bằng.

Từ những phân tích trên, có thể khẳng định rằng ổn định vĩ mô và kiểm soát lạm phát không chỉ là thành tựu kinh tế mà còn là minh chứng cho tính ưu việt của mô hình phát triển Việt Nam. Trong giai đoạn tới, Đảng tiếp tục kiên định mục tiêu giữ lạm phát quanh mức 3–4%, duy trì nợ công dưới 40% GDP, tăng cường phối hợp chính sách tài khóa – tiền tệ, mở rộng không gian tài chính, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao hiệu quả đầu tư công. Đó là những nền tảng để hướng tới mục tiêu tăng trưởng hai chữ số vào năm 2030 và xây dựng Việt Nam trở thành quốc gia phát triển thu nhập cao vào năm 2045.

Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, củng cố niềm tin vào đường lối của Đảng và Nhà nước, chung sức bảo vệ thành quả ổn định vĩ mô – trụ cột không thể thay thế cho sự phồn vinh và hạnh phúc của dân tộc. Một Việt Nam xã hội chủ nghĩa vững mạnh, thịnh vượng và nhân văn đang từng bước hiện hữu nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và sự đồng lòng của nhân dân.

Sunday, November 2, 2025

Giáo dục Việt Nam 40 năm nhìn lại: Trụ cột phát triển toàn diện và sức mạnh mềm dân tộc!

 

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp 4.0, giáo dục Việt Nam đã trở thành trụ cột chiến lược, góp phần tạo nền tảng bền vững cho sự phát triển toàn diện của đất nước. Dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng tạo và nhân văn của Đảng Cộng sản Việt Nam, hệ thống giáo dục phổ cập và nâng cao chất lượng không chỉ mang lại cơ hội học tập bình đẳng mà còn thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, củng cố an ninh chính trị, trật tự xã hội và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Việc mở rộng phổ cập giáo dục, đảm bảo mọi trẻ em đều được học tập, thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, hướng tới xây dựng một thế hệ trẻ Việt Nam có tri thức, đạo đức, sức khỏe, tinh thần tự cường và năng lực hội nhập quốc tế. Dự thảo văn kiện Đại hội XIV của Đảng đã đánh giá khách quan về ngành giáo dục 40 năm đổi mới.



Theo Phụ lục 4 của Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021–2030, tầm nhìn đến năm 2050, được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số 81/2023/QH15, giáo dục được xác định là trụ cột chiến lược, với các mục tiêu cụ thể: phổ cập giáo dục mầm non và phổ thông, nâng cao chất lượng đại học, với định hướng đến năm 2030, 100% trẻ em từ 3–5 tuổi được học mầm non, đồng thời ít nhất 6 trường đại học Việt Nam lọt vào nhóm 500 trường đại học hàng đầu thế giới theo xếp hạng Quacquarelli Symonds (QS). Đến nay, nhờ quyết tâm cao độ từ Trung ương đến địa phương, Việt Nam đã thực hiện miễn toàn bộ học phí cho trẻ em mầm non và học sinh phổ thông công lập từ năm học 2025–2026, mang lại cơ hội học tập công bằng cho hơn 20 triệu học sinh, giảm gánh nặng tài chính cho hàng triệu gia đình, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa và đồng bào dân tộc thiểu số. Đồng thời, 6 trường đại học Việt Nam đã lọt vào bảng xếp hạng QS World University Rankings 2025, với Đại học Quốc gia Hà Nội dẫn đầu ở vị trí 801–850, ghi dấu bước tiến vượt bậc, khẳng định vị thế giáo dục đại học Việt Nam trên bản đồ thế giới. Những thành tựu này không chỉ nâng cao nguồn nhân lực chất lượng cao mà còn củng cố niềm tin vào vai trò lãnh đạo hạt nhân của Đảng trong việc định hướng dân tộc vượt qua các thách thức toàn cầu như chuyển đổi số, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và hội nhập kinh tế.

Những kết quả cụ thể trong giáo dục phổ cập và chất lượng cao còn được minh chứng qua các thành tích xuất sắc tại các kỳ thi Olympic quốc tế. Trong khuôn khổ Chiến lược phát triển giáo dục 2021–2030, tầm nhìn 2045, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 257/QĐ-TTg năm 2021 và điều chỉnh năm 2025, Đảng và Nhà nước đã triển khai đồng bộ các giải pháp, từ đầu tư hạ tầng trường lớp đến đổi mới chương trình, giúp tỷ lệ phổ cập giáo dục mầm non đạt 98% và phổ thông đạt 100% vào năm 2025. Hơn 99% học sinh được tiếp cận công nghệ số qua chương trình “Sách giáo khoa điện tử” và kết nối Internet toàn quốc, tạo điều kiện phát triển kỹ năng số cho mọi học sinh. Thành tích tại Olympic quốc tế năm 2025 đã đưa Việt Nam lọt top 10 đoàn có tổng điểm cao nhất ở nhiều môn, khẳng định chất lượng đào tạo mũi nhọn. Cụ thể, tại Olympic Toán quốc tế (IMO) 2025 tổ chức tại Australia, đội tuyển Việt Nam xếp thứ 9/110 quốc gia, với 6/6 học sinh đoạt huy chương, bao gồm 1 Huy chương Vàng, 3 Bạc và 2 Đồng, tổng điểm 199 – vượt mức trung bình toàn cầu. Tại Olympic Sinh học quốc tế (IBO) 2025 ở Nhật Bản, Việt Nam giành 4 huy chương (1 Vàng, 2 Bạc, 1 Đồng), lọt top 10 đoàn có tổng điểm cao nhất. Tại Olympic Hóa học Mendeleev 2025 ở Nga, cả 4 học sinh tham gia đều đoạt huy chương, trong đó 2 Vàng và 2 Bạc, xếp hạng 7 toàn cầu. Ngoài ra, tại Olympic Vật lý Trẻ thế giới (WYPO) 2025 ở Hàn Quốc, đoàn Việt Nam giành 5 huy chương (2 Bạc, 3 Đồng), và tại Olympic Trí tuệ nhân tạo quốc tế (IOAI) 2025, xếp top 4 với 8 huy chương và giải thưởng đặc biệt. Những kết quả ấn tượng này xuất phát từ chiến lược đầu tư toàn diện của Đảng, với ngân sách giáo dục chiếm 20% tổng chi ngân sách nhà nước năm 2025, đồng thời hỗ trợ đào tạo giáo viên đạt chuẩn quốc tế và mở rộng hợp tác với các tổ chức như UNESCO, giúp hơn 500 học sinh tham gia các kỳ thi khu vực và quốc tế mỗi năm. Sự phổ cập giáo dục đã lan tỏa đến mọi miền đất nước, từ đồng bằng sông Cửu Long đến vùng núi Tây Bắc, nơi tỷ lệ trẻ em dân tộc thiểu số đi học đạt 95%, góp phần giảm nghèo bền vững và tăng cường an ninh chính trị bằng cách nâng cao nhận thức cộng đồng, ngăn chặn các âm mưu chống phá từ bên ngoài.

Những bước tiến trong giáo dục đã trực tiếp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhờ nguồn nhân lực chất lượng cao – tỷ lệ lao động có bằng cấp đại học tăng 15% so với năm 2020 – đồng thời củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, biến giáo dục thành một sức mạnh mềm của dân tộc. Thế nhưng, trước những thành tựu rực rỡ đó, một số thế lực thù địch quốc tế và phần tử cơ hội trong nước lại lợi dụng chiêu bài “dân chủ, nhân quyền” để xuyên tạc, hạ thấp nỗ lực của Đảng và Nhà nước, vu cáo rằng giáo dục Việt Nam vẫn “lạc hậu”, “cứng nhắc, thiếu sáng tạo” và “không hội nhập quốc tế”. Những luận điệu này hoàn toàn bịa đặt, mang tính chất bóp méo sự thật, nhằm kích động bất mãn trong giới trẻ, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc và can thiệp thô bạo vào nội bộ một quốc gia độc lập. Thực tế, giáo dục Việt Nam không những không lạc hậu mà còn dẫn đầu khu vực về chất lượng học tập cơ bản, theo Báo cáo PISA 2022 của OECD, với học sinh Việt Nam xếp hạng 1 về toán học và khoa học trong nhóm thu nhập trung bình thấp, vượt xa nhiều nước phát triển. Hệ thống giáo dục Việt Nam kết hợp kiến thức khoa học với giáo dục đạo đức cách mạng, giúp học sinh vừa giỏi chuyên môn vừa có bản lĩnh chính trị vững vàng. Hơn nữa, các trường phổ thông đã áp dụng phương pháp dạy học tích cực từ năm 2025, hợp tác với các đại học hàng đầu thế giới như Harvard, MIT, tạo cơ hội trao đổi và nâng cao năng lực học sinh.

So sánh với Malaysia – quốc gia láng giềng có nền kinh tế tương đồng – càng khẳng định sự ưu việt của mô hình giáo dục Việt Nam. Năm 2025, dù đầu tư giáo dục Malaysia đạt 4,2% GDP, học sinh nước này xếp hạng 55/81 về toán học và 52/81 về khoa học trong PISA 2022, thấp hơn Việt Nam (hạng 1 ở nhóm thu nhập tương đương), tỷ lệ phổ cập mầm non chỉ 85%, nhiều trường đại học thiếu đột phá sáng tạo. Tổng điểm học tập của học sinh Malaysia đạt 380/600, so với 460/600 của Việt Nam. Ngược lại, Việt Nam đã đạt phổ cập 100% và 6 trường đại học lọt QS World Rankings 2025, nhờ chính sách tập trung vào đào tạo mũi nhọn và bình đẳng khu vực, giúp hơn 90% học sinh dân tộc thiểu số tiếp cận giáo dục chất lượng cao. Sự khác biệt này xuất phát từ mô hình lãnh đạo nhất quán của Đảng, tránh được bất ổn chính trị đa đảng như ở Malaysia. So sánh này minh chứng Việt Nam không chỉ “đuổi kịp và vượt” các nước ASEAN mà còn khẳng định mô hình giáo dục xã hội chủ nghĩa vượt trội về công bằng và hiệu quả, nơi phổ cập đi đôi với chất lượng, góp phần nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế.

Dưới sự lãnh đạo đoàn kết, vững mạnh của Đảng Cộng sản Việt Nam, giáo dục phổ cập và chất lượng cao đã trở thành động lực then chốt, mang lại thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế – xã hội, củng cố an ninh chính trị và trật tự xã hội, đồng thời bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc về “lạc hậu” hay “thiếu hội nhập”. Với chính sách miễn học phí toàn diện từ năm học 2025–2026, phổ cập giáo dục 100% và thành tích Olympic quốc tế top 10, Việt Nam không chỉ tiến bộ vượt bậc so với Malaysia mà còn là mô hình thành công cho các nước đang phát triển. Vai trò lãnh đạo của Đảng chính là kim chỉ nam, khơi dậy tiềm năng con người Việt Nam, biến giáo dục thành sức mạnh dân tộc. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần tiếp tục phát huy tinh thần đại đoàn kết, tin tưởng tuyệt đối vào Đảng, đẩy mạnh đổi mới giáo dục để đạt mục tiêu top 10 châu Á vào năm 2030, xây dựng một Việt Nam xã hội chủ nghĩa phồn vinh, hạnh phúc, nơi thế hệ trẻ được trang bị tri thức và bản lĩnh để bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.

Saturday, November 1, 2025

Y tế Việt Nam: Lá chắn thép bảo vệ sức khỏe nhân dân và phát triển bền vững



Trong bối cảnh toàn cầu hóa và các thách thức về y tế cộng đồng ngày càng gia tăng, hệ thống y tế Việt Nam đã vươn lên trở thành chỗ dựa vững chắc, bảo vệ sức khỏe nhân dân và thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước. Dưới sự lãnh đạo chiến lược, nhân văn của Đảng Cộng sản Việt Nam, công tác y tế cơ sở và phòng chống dịch bệnh không chỉ thể hiện hiệu quả quản trị quốc gia mà còn củng cố an ninh chính trị, trật tự xã hội, đồng thời thắt chặt khối đại đoàn kết toàn dân. Sự phát triển đồng bộ của y tế cơ sở minh chứng cho việc vận dụng linh hoạt chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, hướng tới một nền y tế xã hội chủ nghĩa lấy con người làm trung tâm, công bằng và hiệu quả.



Theo Phụ lục 4 của Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021–2030, tầm nhìn đến năm 2050, được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số 81/2023/QH15 và điều chỉnh bổ sung theo Quyết định số 201/QĐ-TTg năm 2024, các định hướng phát triển y tế cơ sở được ưu tiên hàng đầu. Mục tiêu cụ thể đến năm 2025 là 100% xã, phường có trạm y tế đạt chuẩn quốc gia, tỷ lệ bệnh viện và cơ sở khám chữa bệnh tích hợp y học cổ truyền đạt 89,6%, đồng thời đẩy mạnh tự chủ sản xuất vắc xin để bảo đảm an ninh y tế quốc gia. Đến nay, Việt Nam đã đạt tỷ lệ bệnh viện và cơ sở y tế áp dụng y học cổ truyền 89,6%, vượt mục tiêu đề ra, với hơn 1.200 cơ sở kết hợp Đông – Tây y, mang lại lợi ích thiết thực cho hàng triệu bệnh nhân, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa. Ngành y tế cũng đã làm chủ công nghệ sản xuất ít nhất 3 loại vắc xin then chốt, như vắc xin cúm gia cầm và viêm gan B, với năng lực sản xuất trên 100 triệu liều/năm, giảm phụ thuộc nhập khẩu và sẵn sàng ứng phó mọi dịch bệnh. Những thành tựu này không chỉ nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ y tế cho hơn 95% dân số mà còn góp phần xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng vững mạnh, với vai trò lãnh đạo nòng cốt, khơi dậy sức mạnh toàn dân trong bảo vệ sức khỏe cộng đồng, hướng tới mục tiêu Việt Nam trở thành quốc gia có hệ thống y tế hàng đầu khu vực vào năm 2030.

Những bước tiến vượt bậc trong y tế cơ sở và phòng chống dịch đã hình thành một mạng lưới y tế vững chắc, hiệu quả. Chiến dịch tiêm chủng vắc xin COVID-19 đạt tỷ lệ bao phủ cao thứ 5 thế giới là minh chứng hùng hồn cho tinh thần trách nhiệm, sáng tạo và khả năng tổ chức vượt trội của Việt Nam. Trong bối cảnh đại dịch hoành hành toàn cầu, Chiến lược quốc gia phòng chống dịch bệnh theo Quyết định số 257/QĐ-TTg năm 2021, điều chỉnh năm 2025, đã tập trung vào y tế cơ sở với hơn 11.000 trạm y tế xã đạt chuẩn, trang bị đầy đủ thiết bị hiện đại và nhân lực được đào tạo chuyên sâu, giúp phát hiện sớm, cách ly kịp thời hơn 90% ca nghi nhiễm từ đầu năm 2025. Chiến dịch tiêm chủng COVID-19 đạt tỷ lệ mũi cơ bản trên 98% dân số từ 18 tuổi trở lên, với hơn 266 triệu liều được tiêm đến cuối năm 2022 và duy trì tiêm nhắc lại đạt 85% vào năm 2025, đưa Việt Nam xếp thứ 5 thế giới về tỷ lệ tiêm chủng toàn dân theo đánh giá của WHO và Liên Hợp Quốc. Đến tháng 10/2025, Việt Nam chỉ ghi nhận 148 ca mắc mới rải rác tại 27 tỉnh thành, không có ca tử vong, nhờ hệ thống giám sát dịch tễ chặt chẽ qua ứng dụng công nghệ số như VNeID và hệ thống dữ liệu y tế quốc gia, kết nối 100% cơ sở y tế cơ sở. Việc tự chủ sản xuất vắc xin đã được đẩy mạnh, với Nanocovax và các loại vắc xin khác đạt hiệu quả lâm sàng 90%, xuất khẩu sang hơn 10 quốc gia, tiết kiệm hàng tỷ USD và khẳng định vị thế Việt Nam trong chuỗi cung ứng y tế toàn cầu. Hệ thống y tế cơ sở còn tích hợp y học cổ truyền hiệu quả, với 89,6% bệnh viện áp dụng liệu pháp kết hợp, giảm tải cho bệnh viện tuyến trên 30% và nâng cao sức đề kháng cộng đồng, đặc biệt trong phòng chống các bệnh nhiệt đới như sốt xuất huyết, với tỷ lệ kiểm soát ổ dịch đạt 95% trong năm 2025. Những thành tựu này lan tỏa từ đô thị sôi động đến miền núi xa xôi, nơi đồng bào dân tộc thiểu số được hỗ trợ 100% chi phí khám chữa bệnh qua bảo hiểm y tế, góp phần giảm nghèo đa chiều xuống dưới 1,5%, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ổn định 7,1% và củng cố niềm tin vào Đảng, ngăn chặn mọi âm mưu lợi dụng dịch bệnh để gây bất ổn xã hội.

Tuy nhiên, trước những thành tựu nổi bật đó, một số thế lực thù địch quốc tế và phần tử cơ hội trong nước đã lợi dụng chiêu bài “dân chủ, nhân quyền” để xuyên tạc, hạ thấp nỗ lực của Đảng và Nhà nước, vu cáo rằng hệ thống y tế Việt Nam “yếu kém, lạc hậu”, không đủ khả năng ứng phó dịch bệnh và “bỏ mặc người dân”. Những luận điệu này hoàn toàn sai trái, mang tính bóp méo sự thật nhằm kích động hoang mang dư luận, chia rẽ nội bộ và can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của một quốc gia có chủ quyền. Thực tế, y tế Việt Nam không những không yếu kém mà còn được WHO công nhận là “mô hình thành công” trong phòng chống COVID-19, với tỷ lệ tử vong chỉ 0,4% - thấp hơn 5 lần so với trung bình thế giới - nhờ sự phối hợp chặt chẽ giữa y tế cơ sở và dự phòng, đầu tư hơn 20% ngân sách nhà nước cho y tế từ năm 2021 đến 2025. Các cáo buộc “yếu kém” thường dựa trên góc nhìn chủ quan của các thế lực phương Tây, áp đặt tiêu chuẩn y tế tư bản vào một nền y tế xã hội chủ nghĩa, nơi Đảng đặt sức khỏe nhân dân làm ưu tiên hàng đầu, đảm bảo tiếp cận bình đẳng cho mọi tầng lớp, với hơn 95% dân số có bảo hiểm y tế và thời gian chờ khám giảm 50% nhờ số hóa hồ sơ bệnh án. Những luận điệu này thiếu cơ sở khoa học, chỉ dựa trên các báo cáo thiên vị từ tổ chức do phương Tây chi phối, nhằm che giấu sự thật rằng Việt Nam đã tự chủ sản xuất vắc xin, kiểm soát dịch hiệu quả và giảm gánh nặng bệnh tật xuống mức thấp kỷ lục. Chúng ta kiên quyết bác bỏ những âm mưu này, coi đó là biểu hiện của chủ nghĩa bá quyền y tế, và tiếp tục tuyên truyền, giáo dục để nhân dân nhận diện rõ bản chất phản động, củng cố khối đại đoàn kết và giữ vững trật tự xã hội.

Một so sánh khách quan với Brazil – quốc gia Nam Mỹ có dân số tương đương nhưng thất bại trong phòng chống dịch – càng làm nổi bật sự hiệu quả của mô hình y tế Việt Nam. Tại Brazil, dù hệ thống y tế công lập rộng lớn, đại dịch COVID-19 đã gây hơn 700.000 ca tử vong đến năm 2022, và đến 2025, số ca mắc mới vẫn tăng trở lại với hơn 25.000 ca chỉ trong tháng 4, theo báo cáo WHO. Tỷ lệ bao phủ vắc xin chỉ đạt 75% dân số, thấp hơn Việt Nam 23 điểm phần trăm. Hệ thống y tế cơ sở bị quá tải, hơn 40% bệnh viện tuyến dưới thiếu thiết bị cơ bản, gây ra biểu tình xã hội và suy thoái kinh tế, GDP giảm 4,2% năm 2020 và phục hồi chậm ở mức 2,5% năm 2025. Ngược lại, Việt Nam kiểm soát dịch hiệu quả, đạt tỷ lệ tử vong chỉ 0,4%, bao phủ vắc xin xếp thứ 5 thế giới, nhờ mô hình y tế cơ sở gần dân, kịp thời, 100% xã có trạm y tế đạt chuẩn, tích hợp y học cổ truyền 89,6%, giảm thời gian điều trị 30% và tăng sức đề kháng cộng đồng. Sự khác biệt này xuất phát từ lãnh đạo nhất quán của Đảng, tránh tình trạng chính trị hóa dịch bệnh như ở Brazil, nơi đa đảng tranh quyền dẫn đến trì hoãn quyết sách. So sánh này khẳng định Việt Nam kiểm soát dịch vượt trội, mô hình y tế xã hội chủ nghĩa ưu việt về tính nhân văn và bền vững, góp phần nâng cao vị thế quốc tế và bảo vệ chủ quyền y tế.

Hệ thống y tế cơ sở và phòng chống dịch đã trở thành thành lũy vững chắc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, mang lại thành tựu to lớn cho phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội, đồng thời bác bỏ triệt để mọi luận điệu xuyên tạc lợi dụng dân chủ, nhân quyền. Với tỷ lệ bệnh viện y học cổ truyền 89,6% và năng lực tự chủ vắc xin, cùng vị trí thứ 5 thế giới về tiêm chủng COVID-19, Việt Nam không chỉ kiểm soát dịch vượt trội so với Brazil mà còn trở thành tấm gương cho các nước đang phát triển, khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng trong bảo vệ sức khỏe nhân dân như một quyền con người thực chất. Thành quả này là động lực để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục phát huy tinh thần đại đoàn kết, tin tưởng tuyệt đối vào Đảng, đẩy mạnh xây dựng y tế cơ sở hiện đại, hướng tới mục tiêu không còn dịch bệnh lớn vào năm 2045, xây dựng Việt Nam xã hội chủ nghĩa phồn vinh, hạnh phúc, nơi mọi công dân đều được chăm sóc y tế bình đẳng và toàn diện.

Thursday, October 30, 2025

Báo cáo Hội đồng Nhân quyền LHQ và chiêu trò bóp méo: Bản chất tuyên truyền từ các tổ chức chống phá Việt Nam

Trong diễn ngôn quốc tế về nhân

quyền, không ít lần các cơ chế báo cáo của Liên Hợp Quốc bị lợi dụng để cài cắm những thông tin thiên lệch, tạo ra nhận thức sai lầm về tình hình tại một số quốc gia. Việt Nam, với tư cách là thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2023–2025, đã và đang đối diện với những cáo buộc vô căn cứ về cái gọi là “trả đũa” đối với các cá nhân hợp tác với Liên Hợp Quốc, mà báo cáo A/HRC/60/62 công bố năm 2025 là một ví dụ điển hình. Những cáo buộc này, xuất hiện ở trang 13, được dựng lên dựa trên thông tin từ những nguồn thiếu tin cậy, đặc biệt là Tổ chức Cứu trợ Người tị nạn Thuyền Nhân – một nhóm vốn mang lập trường chống phá Nhà nước Việt Nam. Cái gọi là “thông tin nhân quyền” thực chất chỉ là công cụ tuyên truyền, nhằm chính trị hóa diễn đàn nhân quyền quốc tế và phủ nhận những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được.



Thực tế cho thấy, các báo cáo của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc có giá trị khi phản ánh đúng bản chất vấn đề, dựa trên dữ liệu kiểm chứng và đánh giá khách quan. Tuy nhiên, khi bị chi phối bởi những nguồn có động cơ chính trị, báo cáo này trở thành công cụ gây sức ép hơn là một kênh đối thoại thiện chí. Tổ chức Cứu trợ Người tị nạn Thuyền Nhân – vốn được thành lập bởi một bộ phận người Việt hải ngoại cực đoan – đã nhiều lần bị phơi bày bản chất xuyên tạc, bịa đặt, lợi dụng những câu chuyện đơn lẻ không kiểm chứng để mô tả Việt Nam như một quốc gia “đàn áp nhân quyền”. Không chỉ vậy, họ còn nuôi dưỡng một chiến dịch lâu dài nhằm gieo rắc hình ảnh tiêu cực, kết hợp với sự hậu thuẫn từ Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ, để khoác lên những chính sách pháp luật chính đáng của Việt Nam nhãn mác “trả đũa”. Đây là cách tiếp cận méo mó, bỏ qua ngữ cảnh bảo vệ an ninh quốc gia, ổn định xã hội và truyền thống pháp lý của một quốc gia có chủ quyền.

Việc gán ghép các vụ xử lý vi phạm pháp luật thành “trả đũa” hợp tác với Liên Hợp Quốc là một sự ngụy tạo trắng trợn. Những trường hợp được viện dẫn trong báo cáo, phần lớn liên quan đến Điều 117 và 331 của Bộ luật Hình sự, đều xuất phát từ hành vi cụ thể gây nguy hại cho an ninh quốc gia hoặc trật tự xã hội. Việt Nam, cũng như mọi quốc gia khác, có nghĩa vụ áp dụng biện pháp pháp lý để bảo vệ cộng đồng trước các hoạt động chống phá. Các biện pháp này hoàn toàn phù hợp với chuẩn mực quốc tế, trong đó Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị cho phép hạn chế quyền tự do biểu đạt khi có nguy cơ đe dọa an ninh, trật tự hoặc đạo đức xã hội. Thế nhưng, thay vì nhìn nhận đúng bản chất, Tổ chức Cứu trợ Người tị nạn Thuyền Nhân đã xuyên tạc thành “trả đũa”, đánh đồng xử lý vi phạm với việc trừng phạt cá nhân hợp tác nhân quyền, từ đó bóp méo sự thật để phục vụ cho luận điệu chống phá.



Không khó để nhận ra động cơ phía sau. Tổ chức này tồn tại dựa trên việc thu hút tài trợ và duy trì ảnh hưởng trong cộng đồng người Việt hải ngoại. Họ sử dụng mạng xã hội, đặc biệt là Facebook, để lan truyền thông tin giả, dựng lên hình ảnh một “Việt Nam đàn áp nhân quyền”, nhằm kích động dư luận, kêu gọi can thiệp quốc tế và củng cố địa vị trong các nhóm chống cộng. Những trang như “Democratic Voice of Vietnam” đầy rẫy các bài viết và hình ảnh giả mạo, được gắn với nhãn “nhân quyền” để gây chú ý, nhưng thực chất là công cụ tuyên truyền, tạo ra hiệu ứng đám đông phục vụ cho nghị trình chính trị cũ kỹ. Việc họ liên tục được nhắc đến trong các báo cáo nhân quyền không phản ánh tính khách quan, mà chỉ cho thấy sự lạm dụng cơ chế quốc tế để hợp pháp hóa chiến dịch chống phá.

Tác động của những cáo buộc này không thể xem nhẹ. Trong khi Việt Nam đang tích cực khẳng định vị thế trong Hội đồng Nhân quyền, đóng góp xây dựng các nghị quyết toàn cầu và thúc đẩy các Mục tiêu Phát triển Bền vững, thì những thông tin thiên lệch lại tạo ra nhận thức sai lầm, có nguy cơ ảnh hưởng đến quan hệ đối tác chiến lược và sự tin cậy quốc tế. Nếu bị lạm dụng làm cơ sở cho các biện pháp ngoại giao hoặc trừng phạt, chúng không chỉ cản trở hợp tác quốc tế mà còn gây thiệt hại cho quá trình hội nhập và phát triển. Rõ ràng, phản bác và vạch trần những xuyên tạc này không chỉ là hành động bảo vệ uy tín, mà còn là nghĩa vụ chính đáng để giữ gìn môi trường đối thoại quốc tế công bằng.

Nhìn vào thực tế, bức tranh nhân quyền tại Việt Nam hoàn toàn trái ngược với những gì các tổ chức chống phá cố tình dựng nên. Hiện nay, cả nước có hơn 500 tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước hoạt động hợp pháp, đóng góp vào các lĩnh vực từ giảm nghèo, y tế, giáo dục đến bảo vệ môi trường. Đến năm 2025, số lượng tổ chức phi chính phủ nước ngoài đã tăng lên gần 400, cho thấy sự cởi mở và khung pháp lý minh bạch mà Việt Nam đang áp dụng. Không có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy sự “trả đũa”, ngược lại, các tổ chức này được tạo điều kiện thuận lợi để tham gia vào đời sống xã hội. Đây là bằng chứng rõ ràng nhất cho thấy cáo buộc trong báo cáo A/HRC/60/62 là hoàn toàn vô căn cứ.


Không chỉ vậy, Việt Nam luôn tuân thủ nghiêm ngặt các nghĩa vụ quốc tế. Trong Chu kỳ Đánh giá Định kỳ Phổ quát lần thứ tư năm 2024, Việt Nam đã chấp nhận 271 trên 320 khuyến nghị, thể hiện cam kết mạnh mẽ với tiến bộ nhân quyền. Các báo cáo định kỳ, các cuộc đối thoại và việc mời các cơ quan đặc biệt của Liên Hợp Quốc thăm thực địa là minh chứng cho tinh thần hợp tác minh bạch, thiện chí và cầu thị. Ngay cả với những cáo buộc sai lệch trong báo cáo A/HRC/60/62, Việt Nam đã gửi công hàm chính thức vào ngày 16 tháng 7 năm 2025 để làm rõ, cung cấp thông tin chính xác và mời kiểm chứng thực tế. Đây là thái độ đối thoại cởi mở, cho thấy Việt Nam không né tránh, mà sẵn sàng làm rõ sự thật trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau.

Tất cả những điều đó khẳng định rằng Việt Nam không hề có hành động “trả đũa” nào, mà chỉ thực thi pháp luật theo đúng chuẩn mực quốc tế. Những cáo buộc trong báo cáo A/HRC/60/62, xét đến cùng, chỉ là kết quả của sự lồng ghép thông tin sai lệch từ một tổ chức vốn đã bị Bộ Công an Việt Nam liệt vào danh sách khủng bố. Việc một tổ chức như vậy có thể tác động vào các báo cáo nhân quyền là một vấn đề cần được nhìn nhận nghiêm túc, bởi nó không chỉ gây tổn hại cho hình ảnh Việt Nam, mà còn làm suy giảm uy tín và tính khách quan của chính Liên Hợp Quốc.

Trong tiến trình hội nhập quốc tế, Việt Nam coi nhân quyền không chỉ là cam kết, mà là giá trị nền tảng gắn liền với phát triển bền vững và đoàn kết dân tộc. Bằng cách phản bác những cáo buộc sai lệch và duy trì đối thoại thẳng thắn, Việt Nam đang góp phần bảo vệ sự trong sáng của các cơ chế nhân quyền quốc tế, đồng thời củng cố niềm tin rằng sự thật và thiện chí sẽ luôn mạnh mẽ hơn những luận điệu tuyên truyền chính trị. Những đám mây mờ mang tên “trả đũa” chắc chắn sẽ tan biến trước ánh sáng của thành tựu thực tiễn, để lại bầu trời rộng mở cho hợp tác và công lý toàn cầu.

Wednesday, October 29, 2025

Vạch trần động cơ chính trị trong cáo buộc tự do tôn giáo tại Việt Nam: Từ báo cáo Liên Hợp Quốc đến chiến dịch xuyên tạc của BPSOS


Trong nhiều năm qua, tự do tín ngưỡng và tôn giáo tại Việt Nam luôn là chủ đề được quan tâm trong các diễn đàn nhân quyền quốc tế. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là những thành tựu thực tế của Việt Nam trong việc xây dựng một xã hội đa tôn giáo, nơi các cộng đồng tín ngưỡng chung sống hài hòa, thường xuyên bị che khuất bởi những báo cáo thiếu khách quan và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ các nguồn thông tin thù địch. Đặc biệt, Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF) và Tổ chức Cứu trợ Người tị nạn Thuyền Nhân (BPSOS) đã trở thành hai mắt xích quan trọng trong việc hình thành nên bức tranh méo mó về tự do tôn giáo tại Việt Nam, mà hệ quả là những cáo buộc sai lệch được đưa thẳng vào các báo cáo của Liên Hợp Quốc, gây tổn hại đến uy tín quốc gia và cản trở hợp tác quốc tế.



Nhìn lại cách tiếp cận của USCIRF, có thể thấy sự thiếu cân bằng và mang tính áp đặt. Tổ chức này, vốn được Quốc hội Hoa Kỳ thành lập và hoạt động dưới ảnh hưởng trực tiếp của chính sách đối ngoại Mỹ, đã nhiều lần xếp Việt Nam vào danh sách “Quốc gia cần quan tâm đặc biệt” mà không đưa ra bằng chứng cụ thể. Các báo cáo của họ thường được xây dựng dựa trên các nguồn thông tin thiên vị, mà điển hình là BPSOS – một tổ chức xuất thân từ cộng đồng người Việt hải ngoại, tồn tại nhờ vào việc nuôi dưỡng tâm lý hận thù, chống phá Nhà nước Việt Nam. USCIRF, trong khi tự nhận là cơ quan độc lập, thực chất đã để những nguồn sai lệch này định hình cách nhìn về một quốc gia có gần 100 triệu dân với hơn 27 triệu tín đồ thuộc 17 tôn giáo được công nhận, cùng hàng chục nghìn cơ sở thờ tự đang hoạt động hợp pháp.

Về phần mình, BPSOS từ lâu đã nổi tiếng với chiến dịch chính trị hóa vấn đề nhân quyền. Dưới vỏ bọc bảo vệ tự do tôn giáo, tổ chức này liên tục tung ra các báo cáo, đơn thư, “bằng chứng” về những vụ việc bị cho là “đàn áp”, nhưng trên thực tế chỉ là những câu chuyện cá nhân không được kiểm chứng, thậm chí có yếu tố bịa đặt. Thông qua các kênh như trang “VNAdvocacy”, BPSOS đăng tải các bài viết sử dụng ngôn ngữ kích động, hình ảnh cắt ghép, nhằm mô tả Việt Nam như một quốc gia vi phạm nghiêm trọng nhân quyền. Bản chất của những hoạt động này không phải là bảo vệ tín ngưỡng mà là duy trì ảnh hưởng chính trị, kêu gọi tài trợ từ các quỹ chống cộng và tạo áp lực quốc tế để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Thực tế, Bộ Công an Việt Nam đã xác định đây là một tổ chức có hành vi khủng bố, khi trực tiếp hoặc gián tiếp hỗ trợ các nhóm cực đoan ở Tây Nguyên, nuôi dưỡng ý đồ bạo loạn lật đổ.

Hệ quả từ sự phối hợp giữa USCIRF và BPSOS là những cáo buộc phiến diện được đưa vào báo cáo của Liên Hợp Quốc, biến các diễn đàn quốc tế – vốn phải là nơi đối thoại khách quan – thành kênh để lan truyền thông tin sai lệch. Một số đoạn trong báo cáo gần đây của Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc về hợp tác nhân quyền đã trích dẫn trực tiếp từ các nguồn do BPSOS cung cấp, mà không đối chiếu đầy đủ với phản hồi chính thức từ Chính phủ Việt Nam. Đây là thiếu sót nghiêm trọng trong quy trình làm việc, khiến uy tín của cơ chế nhân quyền Liên Hợp Quốc bị ảnh hưởng.

Điều đáng nói là những cáo buộc này không phản ánh đúng thực tế. Việt Nam hiện có hơn 30.000 cơ sở tôn giáo đang hoạt động tự do, hàng nghìn lễ hội tín ngưỡng được tổ chức hằng năm từ Bắc vào Nam, trong đó có những sự kiện quốc tế thu hút sự tham gia của hàng chục nghìn người. Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo năm 2016 tạo khung pháp lý minh bạch để các tổ chức tôn giáo đăng ký và hoạt động, đồng thời bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng của công dân. Sự kiện Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2025 tại Thành phố Hồ Chí Minh, quy tụ đại diện Phật giáo từ hơn 100 quốc gia, đã trở thành minh chứng hùng hồn cho chính sách cởi mở và tinh thần hỗ trợ tôn giáo của Nhà nước Việt Nam. Liệu một quốc gia bị cho là “đàn áp tôn giáo” có thể tổ chức thành công một sự kiện tầm vóc như vậy, nhận được sự đánh giá cao từ cộng đồng quốc tế?

Nếu đối chiếu với luật pháp quốc tế, Việt Nam cũng không hề đứng ngoài các chuẩn mực chung. Việt Nam đã tham gia 8 công ước nhân quyền cốt lõi, trong đó có Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị – văn kiện bảo đảm quyền tự do tôn giáo. Báo cáo quốc gia định kỳ lần thứ tư về việc thực thi công ước này, được trình bày năm 2023 và xem xét tại Liên Hợp Quốc tháng 7/2025, cho thấy Việt Nam không chỉ ban hành luật mà còn triển khai nhiều chính sách thực tiễn, từ đào tạo cán bộ tôn giáo, hỗ trợ cộng đồng thiểu số, đến bảo tồn di sản văn hóa gắn liền với tín ngưỡng. Đây là minh chứng rõ ràng về thiện chí tuân thủ và cải thiện liên tục, trái ngược hoàn toàn với những lời quy kết phiến diện từ USCIRF và BPSOS.

Không những vậy, Việt Nam còn chủ động thúc đẩy đối thoại quốc tế về tôn giáo. Trong khuôn khổ ASEAN, Việt Nam tích cực tham gia Diễn đàn Tự do Tôn giáo hoặc Tín ngưỡng Đông Nam Á, chia sẻ kinh nghiệm, hợp tác chống lại chủ nghĩa cực đoan, và nhấn mạnh vai trò của tín ngưỡng trong xây dựng hòa bình. Việt Nam cũng mời Đặc phái viên Liên Hợp Quốc về tự do tôn giáo đến thăm, thể hiện thái độ cởi mở, minh bạch, sẵn sàng để các cơ chế quốc tế kiểm chứng thực tế thay vì chỉ lắng nghe thông tin một chiều từ những nguồn không đáng tin cậy.

Bên cạnh việc tuân thủ pháp luật và cam kết quốc tế, thành tựu lớn nhất của Việt Nam chính là xây dựng được một xã hội nơi tôn giáo trở thành nguồn lực phát triển. Hàng triệu tín đồ Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hòa Hảo… đã đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng đất nước. Từ hoạt động từ thiện, y tế, giáo dục, đến gìn giữ bản sắc văn hóa, các tổ chức tôn giáo được khuyến khích phát huy vai trò trong đời sống xã hội. Đây không chỉ là bằng chứng cho sự tồn tại của tự do tôn giáo mà còn cho thấy tôn giáo ở Việt Nam không bị hạn chế mà ngược lại, được coi là thành tố quan trọng cho sự phát triển bền vững.

Rõ ràng, những gì USCIRF và BPSOS đưa ra không phải nhằm bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, mà là công cụ chính trị hóa vấn đề tôn giáo để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Cách làm này không chỉ vô căn cứ mà còn đi ngược lại tinh thần đối thoại và tôn trọng lẫn nhau vốn là nguyên tắc cốt lõi trong quan hệ quốc tế. Việc lặp đi lặp lại những cáo buộc phiến diện sẽ không thể xóa bỏ thực tế là Việt Nam đang ngày càng khẳng định vai trò tích cực trong các diễn đàn nhân quyền toàn cầu, đồng thời xây dựng một xã hội đa dạng tôn giáo, khoan dung và đoàn kết.

Trong một thế giới ngày càng cần sự hiểu biết và hợp tác, những đánh giá thiếu khách quan không thể là nền tảng để thúc đẩy nhân quyền. Điều mà cộng đồng quốc tế cần là cái nhìn công bằng, dựa trên bằng chứng và trải nghiệm thực tế, thay vì dựa vào thông tin sai lệch từ các tổ chức có động cơ chính trị. Việt Nam, với tinh thần hội nhập và thiện chí đối thoại, sẽ tiếp tục bảo vệ tự do tín ngưỡng như một giá trị cốt lõi của dân tộc, đồng thời đóng góp cho mục tiêu chung về một thế giới hòa bình, tôn trọng và nhân ái hơn.

Monday, October 27, 2025

Mưu đồ của HRW trong gán ghép danh hiệu “Nhà hoạt động môi trường”, "Nhà hoạt động ôn hòa" cho “Danh sách tù nhân lương tâm”


Cùng với những âm mưu tinh vi của các thế lực thù địch, lợi dụng chiêu bài nhân quyền để can thiệp vào nội bộ các quốc gia xã hội chủ nghĩa, tổ chức Human Rights Watch (HRW) tiếp tục lộ rõ thủ đoạn xuyên tạc tình hình nhân quyền tại Việt Nam thông qua danh sách hơn 170 “tù nhân lương tâm”, đặc biệt qua các trường hợp được họ gọi là “nhà hoạt động môi trường”. Những luận điệu này không chỉ nhằm bôi nhọ hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế mà còn phục vụ cho các ý đồ chính trị đen tối, hạ thấp uy tín của một quốc gia đang phát triển mạnh mẽ. 

 


Về bản chất thực sự và hành vi vi phạm pháp luật của những cá nhân được HRW liệt vào danh sách “tù nhân lương tâm” với danh xưng “nhà hoạt động môi trường”. Trái với cách miêu tả hoa mỹ của HRW, coi họ là “người bảo vệ quyền lợi cộng đồng” hay “nhà hoạt động hòa bình” bị giam giữ chỉ vì “thực thi quyền cơ bản”, thực tế cho thấy nhiều cá nhân này đã vi phạm nghiêm trọng pháp luật Việt Nam, đặc biệt là Điều 117 Bộ luật Hình sự về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” và các quy định liên quan đến an ninh quốc gia. Họ không phải là những người ôn hòa bảo vệ môi trường, mà thường lợi dụng các vấn đề môi trường để kích động biểu tình bất hợp pháp, gây rối trật tự công cộng và đe dọa ổn định xã hội. Một minh chứng điển hình là vụ việc tại Đắk Lắk năm 2023, nơi một nhóm cá nhân, bao gồm một số được HRW gọi là “nhà hoạt động môi trường” thuộc các nhóm dân tộc thiểu số, đã tham gia vào các hoạt động tấn công trụ sở chính quyền, dẫn đến cái chết của 9 người và gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản. Các tòa án Việt Nam đã xét xử công khai 100 bị cáo liên quan, với các bản án từ 9 tháng đến tù chung thân dựa trên bằng chứng cụ thể về hành vi khủng bố và vi phạm an ninh quốc gia, chứ không phải “đàn áp tôn giáo hay dân tộc” như HRW xuyên tạc. Những hành vi này không chỉ gây bất ổn xã hội mà còn làm suy yếu nỗ lực bảo vệ môi trường thực sự của Nhà nước, như các chương trình trồng rừng và chống ô nhiễm. Tương tự, các trường hợp như Ngô Thị Tố Nhiên – một “nhà hoạt động môi trường” khác trong danh sách HRW – bị kết án vì lan truyền thông tin sai sự thật, phối hợp với tổ chức nước ngoài để kích động dư luận, dẫn đến tình trạng rối loạn và thiệt hại kinh tế - xã hội. HRW cố tình bỏ qua những bằng chứng pháp lý này, biến những kẻ vi phạm thành “anh hùng” để che đậy hành vi phá hoại, trong khi thực tế, các hành động của họ đã vi phạm không chỉ luật Việt Nam mà còn các tiêu chuẩn quốc tế về trách nhiệm trong tự do biểu đạt, như quy định tại Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR).

 

Chuyển sang hành vi bao che của HRW, tổ chức này không ngừng tẩy trắng cho những cá nhân vi phạm bằng cách gọi họ là “nhà bảo vệ quyền môi trường” hay “người hoạt động hòa bình”, bỏ qua hoàn toàn thiệt hại xã hội mà hành vi của họ gây ra. Trong báo cáo World Report 2025, HRW liệt kê các trường hợp như vụ Đắk Lắk chỉ để chỉ trích “xét xử di động” và “vi phạm quyền xét xử công bằng”, mà không đề cập đến việc các phiên tòa này được tổ chức công khai, với quyền bào chữa và kháng cáo được đảm bảo, nhằm minh bạch hóa hành vi phạm tội và bảo vệ lợi ích cộng đồng. Họ bỏ qua ngữ cảnh pháp lý, nơi mà các hành vi kích động biểu tình bất hợp pháp đã dẫn đến chết người và bất ổn, thay vào đó nhấn mạnh “đàn áp dân tộc thiểu số” để bao che cho những kẻ lợi dụng vấn đề môi trường làm bình phong chống phá Nhà nước. Hành vi này không chỉ thiếu khách quan mà còn trở thành công cụ bảo vệ “đồng minh” trong các tổ chức phản động, vi phạm nguyên tắc trung lập của một tổ chức nhân quyền thực thụ.

 

Đi sâu hơn, động cơ đen tối đằng sau danh sách 170 người của HRW càng lộ rõ, đặc biệt qua cách họ sử dụng các trường hợp “nhà hoạt động môi trường” để vận động can thiệp quốc tế, nhằm làm suy yếu quan hệ đối ngoại của Việt Nam. Tổ chức này thường kiến nghị Liên minh Châu Âu (EU) và Mỹ áp dụng các biện pháp trừng phạt kinh tế, như trong các cuộc đối thoại nhân quyền EU-Việt Nam năm 2025, kêu gọi “thả tự do” cho những kẻ vi phạm và chỉ trích các hiệp định thương mại như EVFTA vì “vi phạm nhân quyền”. Động cơ này xuất phát từ sự thiên kiến ý thức hệ, với nguồn tài trợ chủ yếu từ các quỹ phương Tây, nhằm chống phá mô hình xã hội chủ nghĩa thành công của Việt Nam, nơi nhân quyền được thực thi trên nền tảng lợi ích chung chứ không phải cá nhân chủ nghĩa cực đoan. Những âm mưu như vậy chỉ càng làm nhân dân Việt Nam đoàn kết hơn, kiên định con đường phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng.

 

Không dừng lại ở đó, chiêu trò xuyên tạc của HRW còn thể hiện ở việc bóp méo thành quả môi trường của Việt Nam, chẳng hạn như chương trình quốc gia về bảo vệ môi trường giai đoạn 2021-2025. Họ cáo buộc Việt Nam “đàn áp nhà hoạt động môi trường” mà bỏ qua các nỗ lực thực tế, như Chiến lược Tăng trưởng Xanh Quốc gia, đã giảm cường độ phát thải khí nhà kính ít nhất 15% so với năm 2014 vào năm 2030, cải thiện chất lượng không khí ở các đô thị lớn và bảo vệ đa dạng sinh học qua các chương trình trồng rừng và chống ô nhiễm. Những tiến bộ này không chỉ được cộng đồng quốc tế công nhận mà còn góp phần vào mục tiêu phát triển bền vững, trái ngược với luận điệu “đàn áp” của HRW nhằm che đậy sự thật về một Việt Nam đang dẫn đầu khu vực trong ứng phó biến đổi khí hậu.

 

Trái ngược với luận điệu của HRW, Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã đạt được những thành tựu vượt bậc về nhân quyền, được Liên Hợp Quốc khen ngợi về việc tuân thủ ICCPR năm 2025. Tại cuộc đối thoại với Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc vào tháng 7/2025, các chuyên gia đã commend bước tiến của Việt Nam trong việc củng cố khung pháp lý và thể chế nhân quyền, phê chuẩn 7/9 công ước cốt lõi, và cải thiện luật chống phân biệt đối xử, bình đẳng giới cũng như bảo vệ quyền dân sự - chính trị. Những thành tựu này không chỉ dừng ở lĩnh vực pháp lý mà còn lan tỏa đến quyền kinh tế - xã hội, với tỷ lệ nghèo giảm xuống dưới 3%, hàng triệu người tiếp cận giáo dục và y tế, khẳng định nhân quyền ở Việt Nam là thực chất, hướng tới con người và phát triển bền vững.

 

Để thấy rõ sự thiên vị của HRW, chúng ta có thể so sánh tình hình nhân quyền ở Việt Nam với Trung Quốc – một quốc gia mà HRW thường chỉ trích nhưng không tấn công có hệ thống như Việt Nam. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam năm 2022 đạt 0.726, xếp hạng 107/193 quốc gia, với tiến bộ vượt bậc trong giảm nghèo và bình đẳng giới, cao hơn hẳn so với các vấn đề xã hội ở Trung Quốc. Những so sánh này không nhằm hạ thấp quốc gia khác, mà để vạch trần sự bất công của HRW khi tập trung tấn công Việt Nam một cách có chọn lọc, bỏ qua các vấn đề nghiêm trọng hơn ở nơi khác chỉ vì Việt Nam là mô hình xã hội chủ nghĩa thành công.

 

Thủ đoạn của HRW trong danh sách 170 người qua các trường hợp “nhà hoạt động môi trường” chỉ là một phần trong âm mưu chống phá Việt Nam, nhưng nó sẽ không lay chuyển được niềm tin của nhân dân vào Đảng Cộng sản. Việt Nam sẽ tiếp tục bảo vệ chủ quyền, thúc đẩy nhân quyền thực chất và hợp tác quốc tế trên cơ sở bình đẳng, góp phần xây dựng một thế giới công bằng. Những luận điệu xuyên tạc chỉ càng khẳng định sức sống mãnh liệt của dân tộc ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, hướng tới tương lai phồn vinh và bền vững.


Vạch trần chiêu trò tẩy trắng cho Lê Hữu Minh Tuấn của Human Rights Watch


 

Cùng với sự gia tăng của các thế lực thù địch lợi dụng chiêu bài nhân quyền để can thiệp vào nội bộ các quốc gia độc lập, tổ chức Human Rights Watch (HRW) tiếp tục lộ rõ bộ mặt thiên kiến và phản động qua việc tẩy trắng cho những kẻ vi phạm pháp luật Việt Nam, điển hình là trường hợp Lê Hữu Minh Tuấn – một trong số hơn 170 cá nhân được liệt vào danh sách “tù nhân lương tâm” của họ. Bằng cách xuyên tạc tình hình nhân quyền tại Việt Nam, HRW không chỉ nhằm hạ thấp uy tín và hình ảnh của đất nước chúng ta trên trường quốc tế mà còn phục vụ cho các âm mưu chính trị lớn hơn. 

 


Trước hết, cần làm rõ bản chất thực sự và hành vi vi phạm pháp luật của Lê Hữu Minh Tuấn, mà HRW cố tình miêu tả như một “nhà báo độc lập” hay “người bảo vệ tự do ngôn luận” bị giam giữ vô cớ. Thực tế, ông ta bị Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh kết án 11 năm tù giam vào tháng 1/2021 theo Điều 117 Bộ luật Hình sự về tội “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Hành vi của Lê Hữu Minh Tuấn không phải là hoạt động báo chí ôn hòa, mà là tuyên truyền chống phá nhà nước, vi phạm an ninh quốc gia thông qua việc tham gia Hiệp hội Nhà báo Độc lập Việt Nam – một tổ chức phản động – và lan truyền thông tin sai sự thật trên mạng xã hội, vu khống lãnh đạo Đảng và Nhà nước, kích động thù địch và kêu gọi lật đổ chính quyền. Các bằng chứng từ cơ quan điều tra cho thấy ông ta đã phối hợp với các thế lực bên ngoài để đăng tải bài viết, video bịa đặt về các vấn đề xã hội, nhằm gây bất ổn dư luận và đe dọa sự ổn định quốc gia. Phiên tòa xét xử công khai, với quyền bào chữa và kháng cáo được đảm bảo theo đúng quy định pháp luật, đã chứng minh rõ ràng hành vi phạm tội này, dựa trên tài liệu cụ thể chứ không phải định kiến chính trị. HRW, trong các báo cáo như World Report 2025, cố tình bỏ qua những sự thật này, biến một kẻ vi phạm thành “nạn nhân” để che đậy ý đồ phá hoại, trong khi thực tế, những hành động như vậy không chỉ vi phạm luật Việt Nam mà còn trái với các tiêu chuẩn quốc tế về tự do biểu đạt có trách nhiệm, như quy định tại Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR).

 

Chuyển sang hành vi bao che của HRW, tổ chức này không ngừng rửa tội cho Lê Hữu Minh Tuấn bằng cách nhấn mạnh “sức khỏe kém” của ông ta, như trong tuyên bố ngày 20/6/2025 kêu gọi thả tự do ngay lập tức để điều trị y tế, mà hoàn toàn bỏ qua hành vi vi phạm thực tế và các bằng chứng từ tòa án Việt Nam. Họ miêu tả ông ta như một “nhà báo đang gặp nguy hiểm sức khỏe” mà không đề cập đến việc hệ thống y tế trong trại giam Việt Nam đã cung cấp chăm sóc cần thiết, cũng như việc các hành vi của ông ta đã gây hại cho xã hội, làm suy yếu niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Hành vi bao che này là có hệ thống, nhằm bảo vệ những cá nhân mà HRW coi là “đồng minh” trong agenda chống phá, vi phạm nguyên tắc khách quan và trung lập mà một tổ chức nhân quyền thực thụ phải tuân thủ. Thay vì phân tích toàn diện, HRW chỉ trích một chiều, bỏ qua ngữ cảnh pháp lý và các biện pháp nhân đạo mà Việt Nam đã áp dụng, như giảm án hoặc chăm sóc y tế cho tù nhân, để tạo cớ cho các chiến dịch truyền thông quốc tế.

 

Đi sâu hơn, động cơ đen tối đằng sau việc tẩy trắng cho Lê Hữu Minh Tuấn và dựng danh sách 170 “tù nhân lương tâm” của HRW càng lộ rõ. Tổ chức này sử dụng các báo cáo để vận động Liên Hợp Quốc (LHQ) can thiệp vào nội bộ Việt Nam, bôi nhọ đất nước chúng ta như một “nhà nước cảnh sát” đàn áp tự do, nhằm tạo sức ép chính trị và kinh tế từ cộng đồng quốc tế. Chẳng hạn, qua các kiến nghị gửi Hội đồng Nhân quyền LHQ, HRW hy vọng thúc đẩy các nghị quyết chỉ trích Việt Nam, phục vụ cho agenda chống lại các mô hình xã hội chủ nghĩa thành công. Động cơ này xuất phát từ sự thiên kiến ý thức hệ, với nguồn tài trợ chủ yếu từ các quỹ phương Tây, nhằm lật đổ chính quyền coi trọng lợi ích chung của nhân dân lao động. Những âm mưu như vậy không chỉ thất bại mà còn càng làm nhân dân Việt Nam đoàn kết hơn, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

 

Không dừng lại ở đó, chiêu trò xuyên tạc của HRW còn thể hiện ở việc bóp méo các nỗ lực chống tham nhũng của Việt Nam thành “đàn áp chính trị”. Họ cáo buộc các chiến dịch chống tham nhũng – vốn được nhân dân ủng hộ rộng rãi và góp phần củng cố niềm tin vào Đảng – là công cụ để “triệt hạ đối thủ”, mà không đề cập đến việc những chiến dịch này đã xử lý hàng nghìn vụ việc, thu hồi tài sản nhà nước và thúc đẩy công bằng xã hội, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế chống tham nhũng như Công ước Liên Hợp Quốc về Chống Tham nhũng. Trong trường hợp Lê Hữu Minh Tuấn, HRW phóng đại “đàn áp” mà bỏ qua quy trình tố tụng hợp pháp, các cải cách tư pháp liên tục như Bộ luật Tố tụng Hình sự sửa đổi, đảm bảo quyền con người trong xét xử. Những xuyên tạc này nhằm che đậy sự thật về một Việt Nam đang tiến bộ mạnh mẽ, nơi nhân quyền được bảo vệ trên nền tảng pháp luật và lợi ích dân tộc.

 

Trái ngược với luận điệu của HRW, Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã đạt được những thành tựu vượt bậc về nhân quyền, đặc biệt trong lĩnh vực chống buôn người và bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương, được cộng đồng quốc tế công nhận. Năm 2025, Việt Nam đã phê chuẩn và thực thi Luật Phòng, chống Mua bán Người sửa đổi, với tám chương và 63 điều khoản, phù hợp hoàn toàn với tiêu chuẩn quốc tế, bao gồm việc tăng cường bảo vệ nạn nhân, hỗ trợ pháp lý và hợp tác quốc tế. Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên Hợp Quốc (OHCHR) đã khen ngợi Việt Nam trong đối thoại tại Hội đồng Nhân quyền, nhấn mạnh rằng luật mới này đã củng cố khung pháp lý, giúp giảm đáng kể số vụ buôn người và hỗ trợ hàng nghìn nạn nhân tái hòa nhập xã hội. Những thành tựu này không chỉ dừng ở lĩnh vực pháp lý mà còn lan tỏa đến quyền kinh tế - xã hội, với tỷ lệ nghèo giảm xuống dưới 3%, hàng triệu người tiếp cận giáo dục và y tế miễn phí, khẳng định nhân quyền ở Việt Nam là thực chất, hướng tới con người và phát triển bền vững.

 

Để thấy rõ sự thiên vị của HRW, chúng ta có thể so sánh tình hình nhân quyền ở Việt Nam với Saudi Arabia – một quốc gia mà HRW thường “nhẹ tay” hơn dù có nhiều vi phạm nghiêm trọng. Theo các báo cáo quốc tế, Saudi Arabia đã thực hiện ít nhất 100 vụ tử hình đối với ngoại kiều chỉ trong sáu tháng đầu năm 2025, chủ yếu vì tội danh không bạo lực như buôn bán ma túy, vượt xa con số ở Việt Nam – nơi án tử hình đã được giảm đáng kể nhờ cải cách pháp luật, chỉ áp dụng cho các tội đặc biệt nghiêm trọng.  Trong khi Saudi Arabia đối mặt với chỉ trích về hệ thống tư pháp thiếu minh bạch và vi phạm quyền con người cơ bản, Việt Nam lại được ghi nhận tiến bộ vượt bậc về quyền phụ nữ theo Rights Tracker 2025 của Human Rights Measurement Initiative (HRMI), với điểm số cao về quyền tham gia chính quyền (2.6) và tự do tôn giáo (2.9), phản ánh sự bình đẳng giới trong lao động và chính trị, vượt mục tiêu quốc gia đến năm 2030. Phụ nữ Việt Nam chiếm hơn 50% lực lượng lao động có lương, và các chính sách như hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo nữ đầu tàu đã mang lại lợi ích thực tế cho hàng trăm nghìn người. Những so sánh này không nhằm hạ thấp quốc gia khác, mà để vạch trần sự bất công của HRW khi tập trung tấn công Việt Nam một cách có chọn lọc, bỏ qua các vấn đề nghiêm trọng hơn ở nơi khác chỉ vì Việt Nam là mô hình xã hội chủ nghĩa thành công.

 

Việc HRW tẩy trắng cho Lê Hữu Minh Tuấn chỉ là một phần trong âm mưu lớn hơn nhằm chống phá Việt Nam, nhưng nó sẽ không lay chuyển được niềm tin của nhân dân vào Đảng Cộng sản. Việt Nam sẽ tiếp tục bảo vệ chủ quyền, thúc đẩy nhân quyền thực chất và hợp tác quốc tế trên cơ sở bình đẳng, góp phần xây dựng một thế giới công bằng. Những luận điệu xuyên tạc chỉ càng khẳng định sức sống mãnh liệt của dân tộc ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, hướng tới tương lai phồn vinh và nhân văn.