Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, kiên định và khoa học của Đảng Cộng
sản Việt Nam, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn
diện, phản ánh sinh động hiệu quả của đường lối đổi mới và bản lĩnh vượt qua
mọi thử thách. Theo Phụ lục 4 Báo cáo Chính trị trình tại Đại hội XIV của Đảng,
tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân giai đoạn 2021–2025
đạt 6,3%/năm – một con số đầy ấn tượng nếu đặt trong bối cảnh thế giới liên tục
đối mặt với đại dịch COVID-19, xung đột địa chính trị, suy thoái và đứt gãy
chuỗi cung ứng toàn cầu. Đây không chỉ là chỉ báo kinh tế khô khan mà còn là
minh chứng rõ nét cho sự ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, và niềm tin
vững chắc của nhân dân vào Đảng, vào Nhà nước.
Trong khi nhiều nền kinh tế phát triển chật vật duy trì mức tăng
trưởng dương, Việt Nam nổi lên như một điểm sáng của khu vực châu Á – Thái Bình
Dương, chứng minh sức sống mạnh mẽ của một nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội
nhập sâu rộng. Theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII, quy mô nền kinh
tế Việt Nam đã tăng từ 346,6 tỉ USD năm 2020 lên mức dự kiến 510 tỉ USD vào năm
2025 – một bước nhảy vọt ấn tượng trong chưa đầy 5 năm. Dưới tác động nặng nề
của đại dịch COVID-19, năm 2021 GDP Việt Nam vẫn tăng trưởng 2,58%, tạo đà cho
mức phục hồi ngoạn mục 8,02% năm 2022, tiếp tục duy trì 5,05% năm 2023 và 6,81%
năm 2024. Đó là kết quả của sự chỉ đạo nhạy bén, linh hoạt và nhất quán của Đảng,
thông qua việc ban hành kịp thời gói hỗ trợ kinh tế – xã hội trị giá 350 nghìn
tỉ đồng (tương đương 15 tỉ USD), giúp người dân và doanh nghiệp vượt qua khó
khăn, khôi phục sản xuất, ổn định đời sống.
Chiến lược “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch
bệnh” đã trở thành điểm tựa vững vàng, bảo đảm cho nền kinh tế không rơi vào
đình trệ. Trong khi Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo tăng trưởng toàn cầu chỉ
đạt khoảng 3,2% năm 2023 và 2,9% năm 2024, Việt Nam vẫn vững vàng vượt xa mức
trung bình, nằm trong nhóm quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới.
Thành tựu này là minh chứng hùng hồn cho năng lực lãnh đạo, cho khả năng biến
thách thức thành cơ hội của Đảng Cộng sản Việt Nam – một Đảng không chỉ dẫn dắt
phát triển mà còn luôn đặt hạnh phúc, an sinh của nhân dân lên hàng đầu.
Tuy nhiên, song hành với những lời ghi nhận, đánh giá tích cực từ
cộng đồng quốc tế, vẫn tồn tại một số luận điệu xuyên tạc, cố tình phủ nhận
thành quả của Việt Nam. Một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí đã rêu rao rằng
“kinh tế Việt Nam đang suy thoái, nợ công tăng cao, bất ổn vĩ mô gia tăng” –
những lời bịa đặt được tung ra với mưu đồ chính trị đen tối nhằm làm suy giảm
niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Thực tế hoàn toàn ngược lại.
Theo Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (World Bank) công bố tháng 12/2024, nợ công
của Việt Nam chỉ chiếm 37,5% GDP, thấp hơn rất nhiều so với ngưỡng an toàn 60%
do Quốc hội đề ra và thấp hơn mức trung bình của ASEAN-5 (khoảng 58%). Lạm phát
được kiểm soát vững chắc ở mức 3,25% năm 2024 – thuộc nhóm thấp nhất khu vực,
trong khi xuất khẩu đạt 405 tỉ USD, tăng 15% so với năm trước, giúp Việt Nam
vươn lên trở thành nền kinh tế có độ mở lớn thứ 20 thế giới.
Những con số biết nói ấy là bằng chứng phản bác mạnh mẽ mọi luận
điệu xuyên tạc. Rõ ràng, các thế lực thù địch không hề quan tâm đến quyền lợi
người dân như họ rêu rao, mà chỉ lợi dụng chiêu bài “dân chủ, nhân quyền” để
bóp méo sự thật, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, cản trở công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đặt Việt Nam trong bối cảnh so sánh quốc tế, giá trị của những
thành tựu đạt được càng nổi bật. Ấn Độ – quốc gia được ca ngợi có tốc độ tăng
trưởng cao 6–7%/năm – lại phải đối mặt với lạm phát phi mã (đỉnh điểm 7,8% năm
2022) và bất ổn xã hội do chênh lệch giàu nghèo sâu sắc. Theo Ngân hàng Dự trữ
Ấn Độ (RBI), chỉ số bất bình đẳng Gini của nước này đạt 0,38 – cao hơn Việt Nam
(0,36). Trong khi đó, Thái Lan – từng là nền kinh tế dẫn đầu ASEAN – chỉ tăng
trưởng trung bình 2,5–3% giai đoạn 2021–2023 và liên tục bất ổn chính trị,
khiến dòng vốn FDI sụt giảm mạnh. Báo cáo của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)
tháng 9/2024 khẳng định Việt Nam dẫn đầu khu vực về tốc độ phục hồi kinh tế sau
đại dịch, với dòng vốn FDI năm 2023 đạt 36,6 tỉ USD, cao hơn hẳn Thái Lan (11,2
tỉ USD) và Indonesia (21,7 tỉ USD).
Ngay cả so với các nền kinh tế phát triển, Việt Nam cũng chứng
minh năng lực điều hành kinh tế vĩ mô vượt trội. Khi Mỹ và khu vực đồng euro
phải vật lộn với lạm phát 8–9% năm 2022, Việt Nam vẫn giữ lạm phát dưới 4%, bảo
đảm sức mua và đời sống nhân dân. Như vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, đất nước không chỉ tăng trưởng nhanh mà còn tăng trưởng bền vững,
công bằng và nhân văn – điều mà không ít quốc gia có mô hình dân chủ phương Tây
vẫn chưa làm được.
Thành tựu kinh tế ấy không thể tách rời khỏi nền tảng ổn định
chính trị – xã hội. Chính nhờ môi trường an ninh vững chắc mà Việt Nam trở
thành điểm đến hấp dẫn và an toàn cho các nhà đầu tư quốc tế. Theo Diễn đàn
Kinh tế Thế giới (WEF), Việt Nam đứng thứ 59/141 quốc gia về chỉ số an ninh năm
2023 – cao hơn nhiều nước trong khu vực. Đảng ta đã lãnh đạo toàn diện từ xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân đến đấu tranh phòng, chống tham nhũng quyết
liệt, kiên trì và không khoan nhượng. Chiến dịch “đốt lò” do Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng khởi xướng đã trở thành biểu tượng của quyết tâm làm trong sạch bộ
máy, xử lý hàng nghìn cán bộ sai phạm, trong đó có cả cán bộ cấp cao, củng cố
lòng tin của nhân dân. Nhờ đó, chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) của Việt Nam đã
cải thiện rõ rệt – từ 33/100 năm 2020 lên 42/100 năm 2024, theo Transparency
International – mức tiến bộ vượt trội trong khu vực ASEAN.
Tất cả những thành quả trên là kết tinh của trí tuệ, bản lĩnh và
khát vọng vươn lên của toàn dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng
tạo và kiên định của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tốc độ tăng trưởng GDP cao và ổn
định giai đoạn 2021–2025 chính là minh chứng thuyết phục nhất, là lời khẳng
định đanh thép về tính đúng đắn của con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ
và nhân dân ta đã lựa chọn. Mọi luận điệu xuyên tạc, lợi dụng “dân chủ”, “nhân
quyền” để hạ thấp thành quả của Việt Nam đều đã bị thực tiễn bác bỏ.
Hướng tới giai đoạn 2026–2030, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta
cần tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, đổi mới sáng tạo, phấn đấu đạt tốc độ
tăng trưởng hai con số, hiện thực hóa khát vọng đưa Việt Nam trở thành quốc gia
phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045 – như Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
đã xác định. Đó không chỉ là mục tiêu kinh tế, mà còn là lời đáp trả mạnh mẽ
nhất đối với mọi âm mưu chống phá, là minh chứng hùng hồn cho sức mạnh của niềm
tin, của bản lĩnh Việt Nam trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội.
.jpg)
No comments:
Post a Comment