Trong
bối cảnh thế giới biến động nhanh chóng với những xu hướng địa chính trị phức
tạp, cạnh tranh chiến lược gay gắt và sự phát triển vượt bậc của khoa học –
công nghệ, câu hỏi lớn đặt ra cho mọi quốc gia là làm sao duy trì được ổn định
chính trị, bảo đảm phát triển bền vững và củng cố niềm tin xã hội. Việt Nam đã
lựa chọn cho mình một con đường đúng đắn: thường xuyên đổi mới phương thức lãnh
đạo và cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm bảo đảm cho hệ thống chính
trị vận hành hiệu quả, phù hợp với yêu cầu của thời đại. Đổi mới không chỉ là
nhu cầu khách quan mà còn là minh chứng cho bản lĩnh chính trị và năng lực tự
hoàn thiện của Đảng – lực lượng duy nhất có đủ tầm nhìn, kinh nghiệm và trách
nhiệm để dẫn dắt dân tộc vượt qua mọi thử thách.
Nghị
quyết số 28 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về việc tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới đã
xác lập rõ ràng định hướng chiến lược: chuyển mạnh sang phương thức lãnh đạo
bằng thể chế, chính sách, bằng hiệu quả hoạt động của bộ máy và trách nhiệm nêu
gương. Đặt trong bức tranh tổng thể của Đại hội XIII và dự thảo văn kiện Đại
hội XIV, có thể thấy đây không chỉ là điều chỉnh kỹ thuật hay cải tiến hành
chính đơn thuần, mà là bước phát triển chất lượng về tư duy cầm quyền, theo
hướng khoa học hơn, dân chủ hơn, thực tiễn hơn. Những chuyển biến này góp phần
đưa công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa lên tầm cao mới,
tạo nền tảng vững chắc cho hội nhập quốc tế sâu rộng và phát triển kinh tế – xã
hội bền vững.
Những
thành tựu trong đổi mới phương thức lãnh đạo được thể hiện rõ nét ở việc Đảng
kiên quyết chuyển từ mô hình lãnh đạo trực tiếp, nặng tính chỉ đạo hành chính
sang mô hình lãnh đạo bằng nghị quyết, bằng chiến lược dài hạn, bằng sự nêu
gương của đội ngũ cán bộ và cấp ủy. Mọi quyết sách lớn đều được chuẩn bị kỹ
lưỡng, lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân, phát huy vai trò giám sát của Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội. Điều này góp phần nâng cao tính
minh bạch, dân chủ, hiệu quả của hệ thống chính trị, đồng thời thể hiện tinh
thần “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” – giá trị cốt lõi của dân chủ
xã hội chủ nghĩa.
Song
song với đó, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng được triển khai
quyết liệt, bài bản, không có vùng cấm. Chiến dịch phòng chống tham nhũng –
tiêu cực được nhân dân gọi bằng cụm từ “đốt lò” đã chứng minh ý chí kiên định
của Đảng trong việc làm trong sạch bộ máy, củng cố niềm tin xã hội. Hàng nghìn
cán bộ ở nhiều cấp bị xử lý, trong đó có cả cán bộ cấp cao, cho thấy Đảng đặt
lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên mọi lợi ích cá nhân hay nhóm lợi ích. Chính
sự nghiêm minh này đã tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong hệ thống chính trị,
nâng cao kỷ cương, phép nước, tạo môi trường lành mạnh cho phát triển kinh tế –
xã hội.
Hiệu
quả của đổi mới phương thức lãnh đạo còn được thể hiện qua những thành quả kinh
tế – xã hội nổi bật. Giai đoạn 2021 – 2025, tăng trưởng kinh tế bình quân đạt
khoảng 6,3%, lạm phát giữ dưới 4%, nợ công chỉ khoảng 37% tổng sản phẩm quốc
nội – mức an toàn so với nhiều nước trong khu vực. Việt Nam phục hồi nhanh
chóng sau đại dịch, duy trì đà tăng trưởng ổn định, trở thành điểm sáng của khu
vực theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á và các tổ
chức quốc tế khác. Chỉ số phát triển con người năm 2025 đạt 0,766 – nằm trong
nhóm cao, cho thấy quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của người dân được bảo đảm
ngày càng tốt hơn. Hệ thống an sinh xã hội được mở rộng, chất lượng y tế, giáo
dục, công nghệ thông tin và đời sống văn hóa liên tục cải thiện.
Tuy
nhiên, trong khi đất nước đạt được những bước tiến lớn lao như vậy, các thế lực
thù địch, phần tử cơ hội lại tìm mọi cách xuyên tạc công cuộc đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng. Họ cho rằng đổi mới chỉ mang tính “bề ngoài”, rằng mô
hình một đảng lãnh đạo là “độc đoán”, “thiếu dân chủ”, đòi áp đặt mô hình “đa
nguyên, đa đảng” của phương Tây lên Việt Nam. Những luận điệu này hoàn toàn
trái với thực tế và thiếu cơ sở khoa học. Chúng cố tình đồng nhất dân chủ hình
thức với dân chủ thực chất, phớt lờ bối cảnh lịch sử, văn hóa và điều kiện phát
triển của mỗi quốc gia.
Dân
chủ ở Việt Nam là dân chủ của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; được thực
hiện thông qua Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng –
lực lượng đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
toàn dân tộc. Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và được thể hiện qua bầu cử,
trưng cầu ý dân, đối thoại chính sách, giám sát của cộng đồng. Việc duy trì vai
trò lãnh đạo của Đảng là lựa chọn của lịch sử và nhân dân Việt Nam, là điều
kiện quyết định để bảo đảm ổn định chính trị – yếu tố mà nhiều nước đa đảng
phương Tây không có được.
So
sánh quốc tế càng cho thấy tính ưu việt của mô hình Việt Nam. Điển hình là
Vương quốc Anh – một quốc gia thường được xem như “hình mẫu dân chủ đa đảng”.
Sau sự kiện Anh rời Liên minh châu Âu vào năm 2016, đất nước này rơi vào một
thời kỳ khủng hoảng toàn diện: thay đổi liên tiếp ba thủ tướng trong thời gian
ngắn, xã hội phân hóa sâu sắc, thương mại giảm 15%, đầu tư lao dốc, lạm phát
tăng tới 11%, khủng hoảng chi phí sinh hoạt khiến hàng triệu người rơi vào cảnh
khó khăn. Bất ổn chính trị và xung đột lợi ích đảng phái khiến chính phủ thường
xuyên tê liệt, trong khi nước Anh ngày càng giảm ảnh hưởng trên trường quốc tế.
Sự chia rẽ ở Bắc Ireland nhiều lần leo thang, tiềm ẩn nguy cơ xung đột vũ
trang.
Nhìn
từ đó, có thể thấy rõ sự khác biệt: Việt Nam duy trì được ổn định chính trị –
xã hội tuyệt đối, nhờ sự lãnh đạo thống nhất, khoa học và nhất quán của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Sự ổn định ấy tạo ra môi trường an toàn cho đầu tư, phát
triển, giúp đất nước tránh được những rủi ro và bất ổn mà nhiều nước đa đảng
phải đối mặt. Chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa
đưa Việt Nam trở thành đối tác chiến lược toàn diện của nhiều cường quốc, nâng
cao vị thế quốc tế của đất nước.
Sự
thật hiển nhiên là: đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng không chỉ đem lại
hiệu quả quản trị quốc gia vượt trội mà còn củng cố sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc, làm sáng rõ bản chất tốt đẹp của Đảng – trung thành với lợi ích dân
tộc, gần dân, hiểu dân, tôn trọng nhân dân và lấy hạnh phúc của nhân dân làm
mục tiêu cao nhất. Mọi luận điệu xuyên tạc đều bị thực tiễn bác bỏ. Nhân dân
chính là thước đo công bằng và rõ ràng nhất của dân chủ. Khi nhân dân tin
tưởng, đồng lòng, khi đất nước hòa bình, phát triển, thì không một luận điệu
nào có thể làm lung lay sự thật ấy.
Trong
thời điểm đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, việc thực hiện thắng lợi
Nghị quyết số 28 và chuẩn bị cho Đại hội XIV có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần tiếp tục đoàn kết, đổi mới, sáng tạo, phát
huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị; kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; giữ vững ổn định chính trị; đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát huy vai trò con người Việt Nam trong thời đại
mới.
Đổi
mới phương thức lãnh đạo không phải là điểm kết thúc, mà là tiến trình liên
tục, phản ánh bản lĩnh và trí tuệ của Đảng Cộng sản Việt Nam – Đảng luôn biết
lắng nghe, biết tự sửa chữa, biết dẫn dắt dân tộc tiến lên bằng chính sức mạnh
của lòng dân và trí dân. Đó chính là nền tảng để Việt Nam tự tin bước vào kỷ
nguyên phát triển mới: giàu mạnh hơn, văn minh hơn, hạnh phúc hơn.
.jpg)
