Thursday, September 26, 2024

Lạm bàn về cáo buộc “bị phân biệt đối xử” hay “bị bỏ rơi”

 


Thời gian qua, Chính phủ Hoa Kỳ, Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF), cùng một số tổ chức phi chính phủ (NGO) đã nêu nhận định cho rằng người Mông, người Thượng, người Khmer, v.v. tại Việt Nam “bị phân biệt đối xử,” “bị chính quyền bỏ rơi,” dẫn đến tình trạng tụt hậu về kinh tế – xã hội, hạn chế quyền tự do tín ngưỡng và văn hóa bản địa. Tuy nhiên, trên thực tế, Nhà nước Việt Nam không hề cản trở, đàn áp, hay bỏ mặc các dân tộc thiểu số; thay vào đó có chính sách ưu tiên để hỗ trợ vùng sâu, vùng xa và thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội đồng bào dân tộc.

Nền tảng pháp lý và chính sách dân tộc của Việt Nam

Hiến pháp Việt Nam quy định rõ: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam” (Điều 5), “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển” (Điều 5). Cùng với đó, Luật Dân tộc (đang được xây dựng), Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo (2016), cùng nhiều nghị định, thông tư tạo hành lang pháp lý giúp bảo đảm những quyền về văn hóa, ngôn ngữ, tín ngưỡng của dân tộc thiểu số.

Việt Nam thực hiện nhiều chương trình, dự án, chính sách quan trọng nhằm nâng cao đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có người Mông, người Thượng (Tây Nguyên), Khmer Nam Bộ, Chăm, Hoa,... như: Chương trình 135 (phát triển kinh tế – xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi); Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP về chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững đối với các huyện nghèo; chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn; chính sách cử tuyển con em dân tộc thiểu số vào đại học, cao đẳng; hỗ trợ sinh viên người dân tộc thiểu số (dạng học bổng, miễn giảm học phí)….Những chính sách này được triển khai liên tục, nhiều giai đoạn với nguồn ngân sách lớn, cho thấy nhà nước ưu tiên đầu tư phát triển vùng sâu, vùng xa, chứ không hề “bỏ rơi” hay để đồng bào tụt hậu.

Nhà nước đặc biệt ưu tiên phát triển hạ tầng, giao thông, giáo dục, y tế ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nhiều tuyến đường liên thôn, liên xã, đèo đồi, cầu cống... được xây dựng bằng ngân sách và chương trình mục tiêu quốc gia hỗ trợ khai thông giao thương, rút ngắn khoảng cách nông thôn – đô thị, giúp đồng bào dễ dàng đưa nông sản ra thị trường. Trường nội trú, bán trú: giúp con em đồng bào dân tộc theo học liên tục, được nhà nước hỗ trợ chi phí ăn ở, sách vở. Trạm y tế xã, bệnh viện tuyến huyện nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, nhiều nơi đồng bào có bảo hiểm y tế miễn phí hoặc chi phí rất thấp. Chương trình xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ về giống cây trồng, vật nuôi, hướng dẫn kỹ thuật canh tác, mở lớp khuyến nông, khuyến lâm. Chương trình tín dụng ưu đãi,  Ngân hàng Chính sách Xã hội cung cấp vốn vay lãi suất thấp cho hộ nghèo, cận nghèo là người dân tộc, giúp phát triển sản xuất…

Nhà nước đặc biệt quan tâm giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa, ngôn ngữ. Ở nhiều nơi, tiếng Mông, tiếng Êđê, tiếng Khmer được giảng dạy trong trường phổ thông hoặc lớp học do địa phương tổ chức. Nhà nước khuyến khích xuất bản sách, tài liệu, chương trình phát thanh, truyền hình bằng tiếng dân tộc. Nhà nước tôn trọngcông nhận các lễ hội truyền thống của đồng bào dân tộc (mừng lúa mới, tết cổ truyền, nghi lễ tôn giáo,...), tạo điều kiện tu sửa, xây dựng cơ sở tôn giáo, văn hóa cho đồng bào, không phân biệt tôn giáo hay dân tộc.

Chính quyền các cấp được yêu cầu phải thúc đẩy đại diện chính trị và công tác cán bộ đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Tỷ lệ đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số luôn được chú trọng, bảo đảm tiếng nói đại diện cho cộng đồng. Nhiều cán bộ người Mông, Thượng, Khmer giữ chức vụ quan trọng tại địa phương và cả cơ quan Trung ương, thể hiện sự bình đẳng trong cơ hội tham gia quản lý nhà nước. Ngân sách nhà nước rót cho vùng dân tộc thiểu số không hề ít. Nhiều địa phương miền núi nâng cấp hạ tầng, đào tạo nghề liên tục. Đây là các chính sách ưu đãi, hoàn toàn trái ngược luận điệu “bỏ mặc.”

Bởi vậy, không có căn cứ “phân biệt” hay “ngăn cản phát triển”. Luật pháp nghiêm cấm phân biệt đối xử, mọi công dân, không kể dân tộc, tôn giáo, đều bình đẳng trước pháp luật (Điều 16, Hiến pháp 2013). Bất kỳ hành vi nào cố ý “kỳ thị dân tộc, chia rẽ dân tộc” đều bị xử lý hình sự hoặc hành chính.

Thực tế đời sống đồng bào ngày càng nâng cao, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh. Theo thống kê của Ủy ban Dân tộc, trong vòng 10 năm (từ 2010 đến 2020), tỷ lệ hộ nghèo vùng dân tộc thiểu số giảm đáng kể. Nhiều mô hình làm ăn hiệu quả của đồng bào, mở rộng hợp tác xã, trang trại, thúc đẩy doanh thu. Đa số địa phương miền núi phát triển du lịch cộng đồng, thu hút khách tham quan tìm hiểu văn hóa Mông, Thái, Dao, Êđê... mang lại thu nhập mới, giúp nâng cao đời sống.

Đặc biệt, tự do tín ngưỡng và sinh hoạt tôn giáo được bảo đảm. Người Mông, người Thượng, Khmer theo đạo Công giáo, Tin Lành, Phật giáo Nam tông Khmer, v.v. đều có hàng trăm cơ sở thờ tự được công nhận. Nhà nước thậm chí có chương trình đào tạo chức sắc cho các hệ phái tôn giáo dân tộc. Không hề có chuyện “cấm đoán” hoặc “đàn áp” tín ngưỡng.

Một số báo cáo quốc tế và tổ chức phi chính phủ cố tình phớt lờ những chính sách ưu đãi, thành tựu phát triển ở vùng dân tộc thiểu số. Thay vào đó, họ: Chọn lọc sự cố lẻ tẻ hoặc dựa trên lời kể ẩn danh, suy diễn thành “đàn áp,” “bỏ đói đồng bào”; chính trị hóa, lấy cớ “bảo vệ người Mông,” “bảo vệ người Thượng,” v.v. để can thiệp hoặc gây sức ép lên Việt Nam.

Như vậy, các luận điệu của Chính phủ Hoa Kỳ, USCIRF hoặc một số NGO về việc Việt Nam “đàn áp,” “bỏ rơi” dân tộc thiểu số không bám sát thực tế, bỏ qua những chính sách phát triển kinh tế – xã hội và thành quả đạt được. Thay vào đó, họ một chiều khăng khăng “phân biệt đối xử” trong khi sự thật là Việt Nam luôn ưu tiên hỗ trợ miền núi, vùng sâu vùng xa, không ngừng nâng cao mức sống và bảo tồn bản sắc cho đồng bào dân tộc thiểu số.

 

No comments:

Post a Comment