Sunday, August 30, 2015

Học thuyết Marx là kẻ thù của tôn giáo?



Những kẻ chống lại chính quyền Việt Nam hiện nay thường rêu rao rằng, Chủ nghĩa Marx là kẻ thù của tôn giáo, là vô thần, là quỷ satan,…Để bảo vệ niềm tin, tín ngưỡng của mình, cần phải chống lại và tiêu diệt chính quyền “cộng sản” đã tôn sùng Marx như một vị thánh. Những bài giảng dưới danh nghĩa rao giảng Tin Mừng của một số linh mục Dòng Chúa cứu thế công khai hô hào điều này và kích động con chiên cần bảo vệ Đức Chúa bằng cách chống lại “cộng sản”. Thực tế có đúng như vậy không?



1. Karl Marx xuất thân từ một gia đình Do Thái, Khi Marx lên 6 tuổi, gia đình ông  theo Cơ Đốc giáo (Kitô Giáo). Thời trẻ Marx là một giáo đồ Cơ Đốc (tín đồ Kitô giáo) và tín ngưỡng Thượng Đế. Không thể nói được rằng ông là người VÔ THẦN!

2. Những lý thuyết về XHCN trước Marx chẳng hề tỏ thái độ thù địch nào với tôn giáo – theo Marx là ngăn cản sự phát triển xã hội – thậm chí lại càng tỏ ra thích thú với nó khi hàng loạt lý thuyết về sự dung hòa giữa CNCS và tôn giáo, như “ Phúc âm của một ngư dân nghèo, 1843-1845” của Wilhalm Weitling (1808-1875) 

3. Những tác phẩm của Marx thực chất thừa nhận vai trò, vị trí của tôn giáo, xem như một ý thức hệ, nhân tố “cách mạng”

Lập luận của những kẻ xem Marx là kẻ thù của tôn giáo thường viện dẫn, thu tóm quan điểm của Marx về tôn giáo trong câu : “tôn giáo là thuốc phiện của quần chúng”, dự đoán về sự tiêu vong của tôn giáo, tiến tới Nhà nước cộng sản…. Marx viết câu ấy vào năm 1843, lúc ông 25 tuổi, trong tác phẩm « Critique de la Philosophie du Droit de Hegel ». Trong cùng một đoạn văn, ông cũng nói : « Tôn giáo một mặt  phản ảnh sự cùng khổ của con người, mặt khác là sự đối kháng chống lại sự cùng khổ ấy ». Tức chính Marx thừa nhận tôn giáo cũng có thể là mầm mống của cách mạng…

Ông Nguyễn Hoài Vân trong bài viết Những ngộ nhận về Học thuyết Marx đã đưa ra lập luận cho luận chứng nêu trên:
Như đã bàn đến nhiều lần ở trên, mọi quan điểm của Marx đều phải được đăt trong bối cảnh Lịch Sử trong đó quan điểm ấy có thể áp dụng được. Marx chống lại tôn giáo ở thời ông, vì tôn giáo, vào lúc đó, đóng vai trò thành trì của các lực lượng bảo thủ, chống lại mọi sự thay đổi trong một xã hội đầy dẫy áp bức, bất công. Trên mặt triết lý, tôn giáo, theo mô hình mà Marx chứng kiến, là một hiện tượng vong thân. Con người phóng ra ngoài mình những ước vọng, sợ sệt, lý tưởng, rồi hệ thống hóa thành Thiên Chúa, để chạy theo thờ phượng (vong thân là đánh mất những gì của mình và bị những thứ ấy thống trị ngược lại). Không những thế, với Hegel, người ta còn quan niệm Lịch Sử như một con đường dẫn đến Thiên Chúa, thông qua nhà nước Đức Phổ và xã hội tư sản. Tôn giáo trở thành « nút chặn » đối với sự vận hành của Lịch Sử. Nếu chúng ta là  những người Ky Tô Hữu sống ở thời Marx, rất có thể chúng ta cũng chia sẻ một số nhận định của Marx về tôn giáo ?
             Ở một giai đoạn Lịch Sử khác, Marx và Engels không ngần ngại đề cao vai trò của tôn giáo trong công cuộc đấu tranh chống bất công xã hội. Trong « Contribution à l’Histoire du Christianisme Primitif », Engels gọi các cộng đồng Ky Tô Giáo nguyên thủy là là những tổ chức Xã Hội Chủ Nghĩa đầu tiên. Ông cũng nhấn mạnh đến vai trò khai phóng của của Ky Tô Giáo trong xã hội Cổ La Mã đang trên đà rữa nát, mặc dù ước vọng về một sự đổi mới, trên nguyên tắc, sẽ chỉ thành sự thật sau sự sụp đổ của cái thế giới cùng khổ này, ở một « đời sau » tốt đẹp và hạnh phúc. Đến thế kỷ 16, nhà thần học Thomas Munzer quan niệm lời Chúa, Ý Chúa, không phải tìm ở bên ngoài, mà ở trong chính nội tâm con người. Vấn đề « vong thân” trong điều kiện đó không đặt ra nũa, và Engels gọi Munzer là « đấng Tiên Tri của Cách Mạng ». Vì Ánh Sáng của Thiên Chúa soi chiếu nội tâm của mỗi người, giàu cũng như nghèo, quý phái cũng như cùng đinh, nên Thần Học của Munzer đưa đến bình đẳng, chống áp bức, bất công. Khi tham gia một cuộc nổi dậy của nông dân, ông viết trên lá cờ hiệu hàng chữ sau : « Lạy Chúa, xin hãy ủng hộ Công Lý của Ngài ». Engels cho rằng « Nước Chúa, đối với Munzer, là một xã hội không có giai cấp, không có tư hữu, và không có Nhà Nước ». Thử hỏi có bao nhiêu người Công Giáo thành thực nghĩ rằng Nước Chúa là một xã hội giai cấp, tư hữu, cai trị bởi một guồng máy Nhà Nước ?
            Marx và Engels cũng thừa nhận ảnh hưởng của Joachim de Flore, một tu sĩ sống ở thế kỷ 12, trên Xã Hội Chủ Nghĩa. Lý thuyết của ông này dựa trên sách « Apocalypse», tức quyển sách cuối cùng của Thánh Kinh Tân Ước. Joachim de Flore cho rằng giai đoạn một ngàn năm được nói đến trong Apocalypse, trong đó Đức Ky Tô sẽ trở lại ngự trị trên thế giới, chính là một sứ điệp hy vọng, một Tin Mừng theo nghĩa gốc của chữ Evangile (evagellion tiếng Hy Lạp là tin mừng). Đó cũng là một thôi thúc đấu tranh, liền trong hiện tại, cho sự hình thành của Nước Chúa, với Tình Yêu ngự trị trên mọi tương quan xã hội. Tư tưởng này đem tương lai vào hiện tại, và, như học thuyết Marx, nó có khả năng làm quay lại bánh xe Lịch Sử bị bế tắc. Thần học của người tu sĩ Joachim de Flore đã ảnh hưởng trên những nhà cách mạng sau đó, từ Jan Hus, qua Thomas Munzer, đến Marx và Engels.
            Trước tính áp bức bất công của Nhà Nước Đức Phổ, gắn liền với Ky Tô Giáo ở thời ông, Marx nói trong «la Question Juive » : « Nhà Nước tự nhận là Ky Tô Giáo thật ra chỉ là sự phủ nhận Ky Tô Giáo của Nhà Nước ấy, và hoàn toàn không phải là sự thể hiện của Ky Tô Giáo trong chính trị ». Ông chủ trương đạt đến một xã hội trong đó « nền móng  không phải là Ky Tô Giáo, mà là nền tảng nhân bản của Ky Tô Giáo » (5).
             Ngày nay, tôn giáo, đặc biệt là Ky Tô Giáo, trong đại đa số trường hợp, không còn là công cụ của áp bức nữa, mà ngược lại, thường đứng về phía kẻ bị áp bức. Những chính quyền đàn áp tôn giáo đều là những chính quyền bảo thủ và ở nhiều nơi trên thế giới, tôn giáo chính là niềm hy vọng chủ yếu, nếu không phải là duy nhất, trong việc chuyển đổi những thể chế tệ hại, tham nhũng, bất công, bóc lột …

            Đức Gioan Phao Lồ đệ nhị nói, năm 1995 : « Tư Bản phải phục vụ cho lao động, không phải lao động phục vụ cho Tư Bản », tóm lược những ý tưởng đã được Ngài đề ra trong Sứ Điệp Centesimus Annus (1991), đưa đến nhận xét khôi hài của Benoit Duquesne : « Đức Gioan Phao Lồ đệ nhị là người Marxiste cuối cùng !» (6).”
Thêm nữa một nghiên cứu về những đóng góp của Marx – Angghen với vấn đề xã hội hóa tôn giáo, tác giả chỉ ra rằng, Marx đánh giá cao vai trò của tôn giáo trong lịch sử phát triển của xã hội:
“Trong khi vẫn đứng trong khuôn khổ phân tích cái sơ đồ hạ tầng cơ sở – thượng tầng kiến trúc, Marx và Engels nêu lên một vài sự tương đồng giữa chủ nghĩa tư bản và Kitô giáo đặc biệt là dưới hình thức Tin Lành của tôn giáo này. Xã hội tư bản ” tìm thấy trong Kitô giáo, cùng với sự tôn thờ con người trừu tượng và nhất là ở các tiêu thức tư sản như Tin Lành, thần luận, v.v… một sự bổ túc tôn giáo thích hợp nhất”  Người ta nhận thấy rằng khá lâu trước Weber, Marx đã chỉ ra một sự liên hệ nào đó giữa chủ nghĩa tư bản và Tin Lành. được coi như “một tôn giáo tư sản”. Theo ông cái “Kỉ nguyên tư sản chỉ bắt đầu từ thế kỉ XVI”. Cuộc  cải cách Tin Lành và sự tước đoạt các tài sản của các Giáo hội mà nó tiến hành đã đem lại cho nước Anh một sự kích thích mới “cho sự tước đoạt mạnh mẽ tài sản của dân chúng ở thế kỉ XVI”


4. Những thế hệ kế thừa, phát triển tư tưởng của Marx không hề chống lại tôn giáo và vô thần. Ai là kẻ vu khống Marx là vô thần?

Trong bài viết “Những huyền thoại về cộng sản và vô thần” của Jim Walker, ông đã lập luận: Chỉ có “sự chống Cộng cuồng loạn của Mỹ, những kẻ cuồng tín cực hữu đã cấy vào đầu dân chúng ý tưởng Cộng sản có nghĩa là vô tôn giáo và chủ trương vô thần.  Ngày nay, cái huyền thoại này vẫn còn tồn tại trong đầu óc của những chính trị gia và nhà tôn giáo bảo thủ.  Tuy nhiên, trong bản Cương Lĩnh của Đảng Cộng sản và trong Hiến Pháp của Liên Bang Sô Viết, không hề nói đến vô thần bất cứ ở chỗ nào.  Liên bang Sô Viết cũng không tiêu diệt tôn giáo.  Trái lại, không có chỗ nào trong chủ nghĩa Cộng sản cấm không cho phép tôn giáo thực hành.  Cần phải để ý đến sự kiện là Bản Cương Lĩnh của Đảng Cộng Sản so sánh Ki Tô Giáo với chủ nghĩa xã hội [Noteworthy appears the fact that the Manifesto of the Communist Party compares Christianity with socialism] như sau:
Không có gì dễ dàng hơn là chủ nghĩa tu khổ hạnh của Ki Tô Giáo có một màu sắc xã hội.  Có phải là Ki Tô Giáo đã phủ nhận tài sản cá nhân, phủ nhận hôn phối, phủ nhận quốc gia? Có phải là thay vì đó Ki Tô Giáo đã rao giảng về sự nghèo khổ và từ thiện, chủ nghĩa độc thân và hành xác, đời sống trong tu viện và Giáo hội mẹ. Chủ nghĩa xã hội của Ki Tô Giáo không gì khác là “nước thánh” mà các linh mục hiến dâng cho những trái tim đau khổ của giới quý tộc.
Điều khoản 34 trong bản Hiến Pháp năm 1977 của Liên Bang Sô Viết Xã Hội Cộng Hòa viết:
Công dân của Liên Bang Sô Viết thì bình đẳng trước pháp luật, bất kể sự khác biệt về nguồn gốc, tình trạng xã hội và tư hữu, giới tính, trình độ học vấn, ngôn ngữ, thái độ đối với tôn giáo, nghề nghiệp, nơi ở, và các tình trạng như địa vị, thân thế v…v…
Chủ nghĩa Cộng sản là một hệ thống niềm tín (beliefs system) về kinh tế và chính trị xã hội, đặt căn bản trên sở hữu cộng đồng thay vì tư nhân.  Chủ nghĩa này không nói bất cứ điều gì để đẩy mạnh chủ trương vô thần hay diệt trừ tôn giáo.
Tuy chắc chắn đã có những sự bạo hành đối với nhà thờ Nga Sô vào đầu thế kỷ 20, quyền lực của Cộng sản làm như vậy là vì những quan ngại chính trị, chứ không phải vì những lý do tôn giáo hay vô thần.  Những người Cộng sản muốn kiểm soát tất cả những nguồn tài nguyên của quốc gia và trong những nguồn tài nguyên này thì gồm có tôn giáo cũng như họ đã làm đối với những vấn đề như kỹ nghệ và nông nghiệp.  Đó là một trong những lý do mà Stalin đã cho Giáo hội Chính Thống Nga sống lại và tồn tại cho đến ngày nay”
Thêm nữa, Stalin cũng sinh ra từ một gia đình có đạo.  Được nuôi dưỡng bởi người mẹ rất sùng đạo, ông ta đã theo học trường của Giáo xứ, và sau đó vào học trường Dòng Thần học. Trong thời gian được huấn luyện về thần học, ông ta bắt đầu có những tư tưởng về Cộng sản.  Hầu hết tính khí cũng như tính không khoan nhượng của ông ta thì phù hợp với những giáo lý mà tôn giáo dạy trong thời đại của ông ta.
Ông viết tiếp:
“Có lẽ lý do mà người ta hay nói đến nhất để kết nối chủ nghĩa vô thần với chủ nghĩa Cộng sản là từ lời phát biểu của Karl Marx:
Tôn giáo là tiếng thở dài  của những tạo vật bị đàn áp, trái tim của một thế giới vô tâm, cũng như nó là tâm linh của một tình trạng vô tâm linh.  Đó là thuốc phiện của con người.
Lời tuyên bố này không bắt nguồn từ triết lý Cộng sản của Marx, mà có vẻ là ông ta muốn chỉ trích triết lý về Quyền của Hegel [Hegel’s Philosophy of Right].  Lời tuyên bố trên cũng không biểu thị chủ nghĩa vô thần hay về không có mặt của Gót, mà chỉ là nhận định về tôn giáo.  Chúng ta nên để ý là có nhiều người tin Gót nhưng từ chối tôn giáo và đồng ý với lời tuyên bố của Marx. Thí dụ, những cá nhân Tin Lành thuần túy cũng tin đúng như Marx.
Marx đã giải thích rõ về nhận định trên của ông:
Do đó, Nhà Nước có thể tự giải phóng (emancipated itself) ra khỏi tôn giáo ngay cả khi tuyệt đại đa số người dân vẫn còn theo tôn giáo.  Và tuyệt đại đa số người dân vẫn thực hành tôn giáo trong đời tư..  Sự giải phóng của Nhà Nước ra khỏi tôn giáo không phải là sự giải phóng của con người ra khỏi tôn giáo.
[--Karl Marx (Bruno Bauer, The Jewish Question, Braunschweig, 1843)]
Nghe chẳng có vẻ gì là vô thần cả, hoàn toàn không có.
Mặt khác, người ta giải thích làm sao cái gọi là “Cộng sản vô thần” khi mà, trong các thập niên 1970, 1980,  các quốc gia Cộng sản và xã hội khác, đặc biệt những quốc gia ở Nam Mỹ, lại theo Ki Tô Giáo, đặc biệt là Ca-tô Giáo?
Chúng ta nên để ý là, hầu hết mọi cuốn sách kết hợp Cộng sản với vô thần là từ các tổ chức tôn giáo hay các tác giả nghiện đạo (religious authors), có khuynh hướng rõ rệt là chống một hệ thống tín ngưỡng cạnh tranh .  Thật vậy, Chủ nghĩa Cộng sản, ít ra là Cộng sản Nga, đã là mối đe dọa cho một số các hệ phái Ki Tô.  Nhưng sự chống đối này cũng chẳng tệ hại gì hơn là lịch sử  Ca-tô chống Tin Lành, của Tin Lành chống Ca-tô, của Hồi giáo chống Ki Tô Giáo hay Ki Tô Giáo chống Hồi giáo.  Những tín đồ Ki Tô Giáo luôn luôn coi những kẻ thù tôn giáo của họ là tuyên truyền, lẩn tránh đối thoại, gán cho những nhãn hiệu [và những tín đồ này chính họ cũng luôn luôn thực hành như vậy], và điều này cũng áp dụng cho những luận cứ chống Cộng, vì Cộng sản cũng là một tôn giáo, thờ phụng một Gót của Nhà Nước thay vì một Gót độc tài, chỉ biết ra lệnh.
Ai có thể giải thích cụm từ “Cộng sản vô thần”  mà không bao giờ nhắc tới chủ nghĩa vô thần trong đó là gì, từ đâu tới?  Bất hạnh thay nhiều người vô thần cũng rơi vào cái mồi của cái huyền thoại này.  Nếu Cộng sản Bôn-Xê-vít tước đi đặc quyền của các nhà thờ, chỉ bằng vào điều này thì có dính dáng gì đến chủ nghĩa vô thần?  Nếu một cơn bão lốc thổi qua một thị trấn Ki Tô Giáo và phá hủy tất cả các nhà thờ trong đó, chúng ta có quy trách đó là một cơn bão lốc … vô thần không?  Thật vậy, nếu Cộng sản biện minh cho tín ngưỡng của họ bằng chủ nghĩa vô thần, ở đâu mà chúng ta có thể tìn thấy những lý lẽ của họ?  Thí dụ, trong những cuộc thập tự chinh, tàn sát, tòa án xử dị giáo, chúng ta có thể thấy một sự thừa thãi những lý luận thần học của các nhà thần học và tín đồ để biện minh cho những sự tàn ác trên.  Nhưng đâu là những lý luận vô thần mà các bậc lãnh đạo Cộng sản dùng?  Chúng ta có thể kiếm ở đâu sự luận bình của họ về vô thần?  Nếu Cộng sản đúng như là những lời mà chúng ta lên án họ thì chúng ta phải kiếm được không thiếu gì những tài liệu chứng minh.  Chúng ta tìm được chúng ở đâu?  Tuy rằng tôi chưa đọc toàn bộ những tác phẩm của Marx và Stalin, tôi đã cố gắng và không thành công kiếm ra bất cứ chỗ nào mà họ thú nhận chủ nghĩa vô thần của họ, cũng như chẳng thấy đâu những điều họ làm sáng tỏ về triết lý của chủ nghĩa vô thần.  Thật là kỳ lạ nếu chúng ta xét đến tất cả những điều lạc dẫn để kích thích tín đồ đến buồn nôn (ad nauseam) về chủ đề “Cộng sản vô thần”.  Hãy tưởng tượng là một tôn giáo hữu thần mà chẳng bao giờ nói đến Gót của tôn giáo đó, chúng ta có thể thấy sự vô nghĩa của cụm từ “Cộng sản vô thần”.  Vậy thì bất cứ khi nào mà có một tín đồ Ki Tô Giáo nào đó muốn bảo vệ những sự tàn ác của tôn giáo họ bằng cách so sánh với những sự tàn ác của “Cộng sản vô thần”, hãy đơn giản hỏi họ về những biện minh vô thần của Cộng sản.  Tôi cho rằng họ chẳng biết là họ đã nói những gì.
Tôi cho các người một thách đố.  Chắc chắn là nhà “đại vô thần Karl Marx” phải có những quan niệm về vô thần ở đâu đó, vậy các người hãy tìm ra một bài báo hay một bài tiểu luận mà Karl Marx giải thích hay viết về chủ nghĩa vô thần, hoặc là một triết lý, hoặc là một hệ thống tín ngưỡng.  Tốt hơn nữa là hãy kiếm ra ở đâu mà ông ta thú nhận chủ nghĩa vô thần của ông ta, dù chỉ trong một câu chữ.”

5. Bình luận về những kẻ chống “cộng sản” bằng sự xuyên tạc Marx là kẻ thù của tôn giáo, thờ quỷ Satan này, ông Trần Chung Ngọc cho nguyên nhân cốt lõi nằm ở chỗ cứu vớt sự suy tàn của một “ý thức hệ”

“Bất cứ người nào có đôi chút kiến thức cũng phải hiểu rằng: CS là một hệ thống chính trị xã hội – kinh tế (Communism is a socio-economic political system) trong khi Vô Thần là một lập trường đối với các tôn giáo (thần giáo), đặc biệt là Ki Tô Giáo (Atheism is a position taken in respect to religion, especially Western religion.), và Vô Thần đã có từ trên 2000 năm nay, trong khi Cộng sản mới chỉ ra đời cách đây trên 100 năm.
 Tại sao những người chống Cộng lại mù quáng và thiếu hiểu biết đến độ ngày nay mà vẫn dùng cụm từ “Cộng sản vô thần” để lên án Cộng sản?  Vì họ đã bị thuốc phiện của những tôn giáo độc thần làm tê liệt đầu óc, khiến cho họ suốt đời phải bám víu vào một vị thần tưởng tượng do tôn giáo đó bày đặt ra, như  bám víu vào một cặp nạng để lê lết trên trường đời.  Họ được dạy vô thần là chống thần của họ, cho nên với bất cứ giá nào, họ phải chống những người “vô thần” để duy trì cặp nạng của họ.  Thật là tội nghiệp.
 Kết hợp Vô Thần với Cộng Sản là một thủ đoạn tuyên truyền xuyên tạc xảo quyệt mà Ki Tô Giáo nói chung, đặc biệt là Ca-tô Rô-ma Giáo, dùng để gây hận thù tôn giáo, mê hoặc đám tín đồ thấp kém mê tín và cuồng tín, trong sách lược chống Cộng trước đây.  Tại sao Ki Tô Giáo lại chống Cộng một cách điên cuồng bất kể thủ đoạn như vậy?  Thật là dễ hiểu, vì lý thuyết của Marx đã vạch trần bộ mặt thật của Ki Tô Giáo, kết quả là đưa Ki Tô Giáo vào con đường suy thoái không có cách nào cứu vãn.  Hiện tượng này thật là rõ rệt, không những chỉ ở Âu Châu, cái nôi của Ki Tô Giáo, mà còn ở khắp nơi trên thế giới, kể cả Bắc Mỹ.  Học giả Công giáo Joseph L. Daleiden đã viết trong cuốn Sự Mê Tín Cuối Cùng (The Final Superstition, Prometheus Books, New York,  1994): “Căn nguyên sự thù ghét Cộng Sản của giáo hội Ca-tô là vì giáo hội ý thức được rằng Cộng Sản, về ảnh hưởng, là một địch thủ tôn giáo.” [The root of the (Catholic) Church’s antipathy toward Communism is its realization that Communism is, in effect, a rival religion].
 
Ca-tô Rô-magiáo đã dùng mọi thủ đoạn, khai thác sự cuồng tín và mê muội của tín đồ, gây căm thù trong đầu óc họ đối với Cộng sản mà Ki Tô giáo gán cho hai chữ Vô Thần, hàm ý Cộng sản chống Thần của Ki Tô Giáo. Cùng một sách lược, trước sự phát triển của Phật Giáo ở Tây phương, giáo hoàng John Paul II đã viết cuốn Bước Qua ngưỡng Cửa Hi Vọng trong đó ông ta phê bình: “Phật giáo đại để là một hệ thống “vô thần”” (Buddhism is in large measure an “atheistic” system). Câu viết tối tăm lắt léo  này chỉ có mục đích đồng nhất hóa “vô thần” của Cộng Sản với “vô thần” của Phật Giáo để giữ đám tín đồ đừng đi theo Phật Giáo
 Vì không hiểu rõ chủ trương vô thần của Marx cũng như bản chất của vô thần cho nên ngày nay vẫn còn có những người cuồng tín, kể cả những người gọi là trí thức Ca-tô hay Tin Lành, và cả một số trí thức Phật Giáo thiếu trí tuệ, vẫn tiếp tục kết hợp Cộng sản với Vô Thần, làm như Vô Thần là một trọng tội xấu xa cần phải diệt trừ.  Họ không đủ kiến thức để hiểu rằng, khi họ kết hợp Cộng Sản với Vô Thần là họ đang thực sự tôn vinh Cộng Sản. 
 Trên thực tế, Vô Thần là kết quả tiến bộ trí thức của con người, như Frank E. Tate đã tuyên bố như sau:
  “Suốt cuộc đời tôi, tôi đã tiến bộ từ một người sùng tín đến một người theo thuyết “bất khả tri” và bây giờ là một người vô thần.   Tôi dùng từ “tiến bộ” vì tôi tin rằng đó thực sự là một sự tiến bộ, tiến từ sự chấp nhận mù quáng vào một huyền thoại phi lý đã lỗi thời đến sự nghi ngờ và sau cùng đến sự từ bỏ và không còn tin nữa.
Chính cái huyền thoại đó – cuốn Thánh kinh Do Thái – Ki Tô – là một cuốn ghi chép kinh hoàng về những cuộc đổ máu, dâm dật, và cuồng tín không đếm xỉa gì đến đời sống và sự an sinh của những người nào không bày  tỏ niềm tin mù quáng của mình vào những giới luật được trình bày qua những lời lẽ mâu thuẫn và không thể nào xảy ra được”
   (During my lifetime I have progressed from being a “believer,” to being an agnostic and now an atheist.  I use the word “progress” because I believe it to be true progress to go from blind acceptance of an outdated illogical mythology to doubt and finally to denial and disbelief...
   The myth itself – the Judeo-Christian Bible – is a shocking account of bloodshed, lust, and bigoted disregard for the lives and well-being of all peoples who do not profess a blind belief in the precepts presented in such impossible and contradictory terms.)
 John Cornwell, một tín đồ Ca-tô Giáo và cũng là một chuyên gia về Ca-tô Rô-maGiáo và Vatican, tác giả 2 cuốn sách nổi tiếng về Vatican: A Thief in the NightHitler’s Pope, đã viết một tác phẩm khác về Ca-tô Rô-maGiáo nhan đề Từ Bỏ Đức Tin: Giáo Hoàng, Giáo Dân, và Số Phận của Ca-tô Giáo (Breaking Faith: The Pope, The People, and The Fate of Catholicism), xuất bản  năm 2001,  trong đó chương đầu viết về Một Thời Đại Đen Tối Của Ca-tô Giáo (A Catholic Dark Age).

  Trong chương này, tác giả John Cornwell đưa ra tình trạng suy thoái trầm trọng của Ca-tô giáo ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Anh, Mỹ, và Pháp.  Số tín đồ mang con đi làm lễ rửa tội giảm sút, vì ngày nay người ta nhận thức được rằng chẳng làm gì có tội ở đâu mà phải đi rửa; đám cưới tổ chức không cần đến  linh mục,  vì hôn phối có thể hợp thức hóa ngoài nhà thờ và bí tích hôn phối đã mất hết ý nghĩa; giới trẻ không buồn đến nhà thờ, vì chẳng thấy gì hấp dẫn trong những lời giảng đi ngược thời gian của các linh mục; số từ bỏ đức tin gia tăng, vì người ta không còn chịu chấp nhận một đức tin mù quáng; từ 1958 đến nay, số vào nghề linh mục giảm đi 2/3 v..v..  Tình trạng ở Châu Âu, trước đây là cái nôi của Công giáo,  thật là thê thảm. 
 Ở Tây Âu (Western Europe), từ 30 đến 50% các giáo xứ không có linh mục.  Ở Ý, 90% theo Công giáo nhưng chỉ có 25% đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật, giảm 10% kể từ đầu thập niên 1980, số người vào học trường Dòng giảm một nửa.  Ở Ái Nhĩ Lan (Ireland), xứ Công giáo, số người cảm thấy mình được ơn kêu gọi tụt xuống từ 750 năm 1970 còn 91 năm 1999, số linh mục được tấn phong từ 259 xuống 43 trong cùng thời gian.  Trong một hội nghị đặc biệt vào năm 1999, các giám mục Âu Châu tuyên bố rằng các dân tộc trong toàn lục địa Âu Châu đã quyết định sống “như là Thiên Chúa không hề hiện hữu” (At a special synod in 1999, the bishops of Europe declared that the peoples of the entire continent had decided to live “as though God did not exist”.)   Ở Nam Mỹ, tình trạng cũng không khá hơn.  7000 tín đồ mới có một linh mục.  Chỉ có 15% giáo dân đi xem lễ ngày chủ nhật.  Theo một hội nghị quốc gia của các giám mục Ba Tây thì mỗi năm có khoảng  sáu trăm ngàn tín đồ bỏ đạo (according to the National Conference of Brazilian Bishops, some 600000 Catholics leave the Church each year.)  Và chính Giáo hoàng đương nhiệm, Benedict XVI cũng đã nhiều lần thú nhận: “Âu Châu ngày nay sống như là không biết đến Gót và cũng chẳng cần đến sự cứu rỗi của Giê-su”
  Âu Châu và nhiều nơi khác trên thế giới đã trở thành “vô thần”.  Cho nên, ngày nay từ “Cộng sản vô thần” chẳng nói lên được điều gì ngoài phản ánh sự đần độn của đám người cuồng tín, không theo kịp đà tiến hóa và sự tiến bộ trí thức của nhân loại.

 Võ Khánh Linh (tổng hợp)

Wednesday, August 26, 2015

Xã hội hóa nhà tù và vấn nạn nhân quyền của nước Mỹ?



Lâu nay giới tự nhận đấu tranh dân chủ, nhân quyền Việt Nam ca tụng các giá trị dân chủ, nhân quyền Mỹ là đỉnh cao của nhân loại. Nhiều anh chị hăng say đấu tranh dân chủ, nhân quyền để có ngày được đến “thiên đường trong mơ” của mình. Hải Điếu Cày đã vội vã quên cả vợ con, giày dép chạy tuốt sang Mỹ khi được chính giới Mỹ chấp nhận. Cô Tạ Phong Tần bị bà Hồ Lan Hương tố suốt ngày say sưa viết đơn gửi khắp nơi xin được đến Mỹ tị nạn trước khi vào nhà tù. Nhiều anh chị zân chủ biết rõ đi “xuất ngoại” cùng Việt Tân sẽ không còn cơ hội “tự do đi lại” những vẫn hăm hở chấp nhận đến nỗi chẳng kịp “tìm hiểu” mình đi với ai như Trương Minh Tam… Bản thân nước Mỹ từ lâu luôn cho mình vị thế “cảnh sát thế giới” dựng lên cả trăm NGO, tổ chức nhân quyền giám sát và kết tội các vụ “vi phạm nhân quyền” các quốc gia khác. Nhưng thực trạng nhân quyền nước Mỹ ra sao, nhìn vào nhà tù của họ là nơi rõ nhất về quyền con người!

Cư dân mạng phương Tây đang chia sẻ với mức khủng bức ảnh về nhóm trẻ em Mỹ mặc áo tù nhân với lời tố cáo bang Maryland đầu tư vào hệ thống nhà tù mới cho thanh thiếu niên trị giá 30 triệu dollar trong khi từ chối đầu tư 11 triệu USD xây trường học nguyên nhân bởi việc giam giữ chúng đem lại lợi ích lớn hơn là dạy dỗ chúng bên ngoài nhà tù! Phần đông độc giả khắp thế giới đều sốc về hình ảnh này, một số cho rằng đế chế Mỹ sẽ sụp đổ và nước Mỹ sẽ sớm rơi vào tình cảnh nước Đức sau Thế chiến II.


 
Điều bí mật ít ai biết là vào tù ở Mỹ, tức là tù nhân được đưa đi lao động như công nhân trong nhà máy nhưng với mức lương rẻ mạt! Như vậy là nhà tù đã đem lại lợi ích cực lớn cho các nhà tài phiệt khi đầu tư thay vì xây mới trường học cho một thế hệ thông minh hơn được sinh ra.

Thực tế này đã từng được báo chí trong nước phản ánh, như “Nhà tù-ngành công nghiệp tỷ USD ở Mỹ”, ”Sự thật khủng khiếp về ngành kinh doanh trại giam tù nhân ở Mỹ”  … trong đó cho thấy, Mỹ là nước có tỷ lệ tù nhân lớn nhất thế giới, thực tế này đã tạo nên một ngành công nghiệp nhà tù phát triển mạnh mẽ bởi mỗi năm chính phủ Mỹ phải chi trung bình 74 tỷ USD cho các hoạt động giam giữ phạm nhân.

Vậy vì sao Mỹ phải cho phép tư nhân hoá nhà tù? 

Trong vòng 20 năm (1980 – 2000), số tù nhân trong các nhà tù đã tăng lên 4 lần, chính phủ Mỹ buộc phải xây dựng thêm nhiều nhà tù mới để lấy chỗ giam giữ. Vào những năm 1990, các bang ở Mỹ đã chi tới 25 tỷ USD để xây dựng mới thêm 3.300 nhà tù, mỗi năm cả nước phải chi 30 tỷ USD cho việc duy trì hoạt động của các nhà tù này. Tính ra hàng năm số tiền chi phí cho nhà tù cao gấp 6 lần chi cho giáo dục. Do tội phạm ngày càng tăng nên chi phí của chính phủ Mỹ và các bang cho việc xây dựng và quản lý các nhà tù mới cũng ngày một lớn, các nhà tù công lập đã lâm vào tình trạng thiếu kinh phí trầm trọng, quản lý hỗn loạn. Vì vậy, chính phủ Mỹ buộc phải từng bước tư nhân hoá các nhà tù để giải quyết vấn đề. Đó là căn nguyên để sinh ra các nhà tù tư nhân ở nước này.

Như vậy, một trong những nguyên nhân dẫn đến chính phủ Mỹ phải đối mặt với những cuộc khủng hoảng tài khóa là chi phí “oan” cho hoạt động quản lý nhà tù có xu hướng ngày một gia tăng, bởi vậy các nhà làm luật là “san sẻ” trách nhiệm cho các đối tác tư nhân. Đã có hơn 30 bang của Mỹ áp dụng giải pháp nhà tù tư nhân. Tính đến cuối năm ngoái, có xấp xỉ 9% tù nhân được đưa vào các nhà tù tư và đang gia tăng với tốc độ chóng mặt. 

Hệ lụy?

Thực tế này dẫn đến nhiều thứ hệ lụy đáng sợ, không thể tưởng tượng ở thế giới văn minh là, đối với các doanh nghiệp kinh doanh nhà tù thì càng nhiều tù nhân doanh thu càng lớn, càng đem lại nguồn lao động giá rẻ 

Mỹ là nước có tỷ lệ tù nhân lớn nhất thế giới, hơn cả Nga, Trung Quốc, Iran. Cứ 100 người thì có một người phải vào trại giam. Trong khi đó, cứ 32 người thì có một người bị án treo, tạm tha hoặc tạm giam.

Đội ngũ lao động lên tới 800.000 người, lớn hơn cả số lao động trong ngành công nghiệp ô tô tại nước này. Các phạm nhân làm việc trong rất nhiều lĩnh vực kinh tế, từ đánh bắt cá, chăn nuôi, trồng trọt, bán hàng cho đến chế tạo xe máy… Do đó, không thể phủ nhận nguồn lợi mà các nhà tù thu được từ nguồn lao động.

Thậm chí, tại một số vùng suy thoái, tổ hợp nhà tù mới có thể vực dậy nền kinh tế khu vực. Một số thành phố nhỏ còn nỗ lực để tạo ra một sự bùng nổ trong lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm này.

Theo bản báo cáo từ Tổ chức Lợi ích cộng đồng, hiện nay, các nhà tù tư nhân ký kết hợp đồng với các trại giam nhà nước nhiều bản hợp đồng đối với các nhà tù tư nhân trong đó bao gồm điều kiện luôn phải đảm bảo định mức (hay còn gọi là hạn ngạch của trại giam) từ 80% đến 100%. Nói một cách khác tức là, theo bản hợp đồng này, các trại giam tư nhân phải đảm bảo đủ từ 80 đến 100% số tù nhân mà họ có thể giam giữ. Do đó, không loại trừ khả năng một số người trong số phạm nhân này không thực sự phạm tội nhưng vẫn bị tống vào tù chỉ để đủ “năng suất”.

Nhiều bang như Louisiana và Oklahoma có lượng hạn ngạch rất cao, tương đương từ 96% đến 98% so với sức chứa nhà tù. Tại Arizona, các nhà tù tư nhân luôn phải đảm bảo có đủ 100% so với sức chứa của nhà tù. Công ty nhà tù tư nhân Mỹ (CCA) - nơi mua và tư nhân hóa các nhà tù nhà nước bằng những hợp đồng này đã thực hiện nhiều hoạt động chính trị để giành được hợp đồng trại giam. Theo báo  cáo, CCA đã chi những khoản đầu tư chính trị khổng lồ như “dành khoản chi khoảng 17,4 triệu USD để vận động hành lang từ năm 2002 đến năm 2012” và “dành khoảng 1,9 triệu đóng góp chính trị” trong cùng kỳ.

Bên cạnh những lợi nhuận có thể nhìn thấy được qua các bản hợp đồng tư nhân, những định mức trên cũng là một trong số những nguyên nhân và động lực khiến nhiều phạm nhân bị tuyên án nặng tay để có thể đáp ứng được hạn ngạch đặt ra – thực chất là đưa càng nhiều người vào tù để tăng lợi nhuận cho các trại giam tư nhân.

Trước đây từng xảy ra chuyện, tại bang Pennsylvania, hai thẩm phán đã nhận “tiền công” từ một trung tâm giam giữ trẻ vị thành niên, đổi lại, họ giúp đẩy nhiều trẻ vị thành niên vào tù bằng cách tuyên án khắt khe từ những tội danh nhỏ nhặt. Mặc dù, về cơ bản hành động “trả công lao” các thẩm phán tại Pennsylvania là tội hối lộ, tham nhũng nhưng không có bang nào ngăn cấm việc áp đặt những hình phạt khắc nghiệt để đáp ứng hạn ngạch của các nhà tù.

Một thời gian, các phạm nhân người Mỹ bị giam trong cảnh chật chội và chịu nhiều điều kiện sống vô nhân đạo. Có thể nhận thấy một điều vô lý rằng nhiều nhà tù đã vì lợi ích trước mặt và mặc kệ thực trạng này ngày càng tồi tệ.

Từ nhà tù nhìn ra vấn nạn nhân quyền nước Mỹ

Vừa qua, blogger Karel Phùng ở Đức đã dịch bộ phim do Đức thực hiện nói về việc nước Mỹ đã sụp đổ với sự tụt dốc về kinh tế và sự thê thảm trong việc đảm báo các giá trị nhân quyền, như việc lượng người bị bần cùng hóa do mất việc gia tăng khủng, người thân chết không có tiền mai táng đã biến xác chết thành “vô chủ”, bỏ ngoài đường để được chính quyền mai táng, quang cảnh hàng triệu người dân không có bảo hiểm y tế, không có tiền khám chữa bệnh dồn đến buổi khám chữa bệnh miễn phí như trại dã chiến…


Không ai phủ nhận vị thế nước Mỹ vẫn đang là cường quốc số 1. Tài chính và sự giàu mạnh, phồn vinh của nước Mỹ nằm trong tay 1% dân số là những tài phiệt, cũng là người thao túng chính trị và nhân quyền nước Mỹ. Chính sách nhân đạo, an sinh xã hội của TT Obama thất bại vì giới tài phiệt không ủng hộ. Tự do súng đạn khiến chính TT Obama lên án nhưng cũng bất lực cũng vì động đến ngành kinh doanh béo bở của giới tài phiệt quân sự…

Không ít những “nhà dân chủ” Việt đã tìm đến được nước Mỹ bằng nhiều con đường khác nhau. Nhưng đúng như Bạch Ngọc Dương, một người từng là “nhà đấu tranh dân chủ” trốn sang được Mỹ làm nails, cay đắng thừa nhận rằng, các anh chị dân chủ to mồm đến Mỹ được giỏi lắm thì hết 6 tháng là hết hơi vì phải đối mặt với cơm áo gạo tiền (tức sau thời gian được bảo trợ), lúc đó tinh thần đấu tranh khắc tự tan biến. Đúng vậy, lâu lắm rồi, không ai thấy sự xuất hiện của cậu thanh niên này cùng nhiều nhân vật khác. Ngay đến cây bút sắc sảo, chống Nhà nước đến điên cuồng khi sang Pháp như Dương Thu Hương cũng lặng thinh không sủi bọt. Tất nhiên cũng có một số thành công như Nguyễn ĐÌnh Thắng, Trúc Hồ hay nhiều thành viên Việt Tân, …nhờ vào thủ đoạn mafia trong thị trường dân chủ Mỹ, quan trọng nhất móc vào được NED hay cơ quan tình báo Mỹ để được nhận tài trợ lay lắt tồn tại.

 Võ Khánh Linh

Tuesday, August 25, 2015

Luận bàn về “Quốc thái dân an”



Ai sinh ra và lớn lên trên mảnh đất hình chữ S này có điều kiện xuất ngoại, nghiên cứu lịch sử-chính trị-xã hội thế giới đều không khỏi day dứt, thương cảm cho hoàn cảnh dân tộc – đất nước mình. Một dân tộc bị chia rẽ bởi vùng miền, địa lý cách trở, bởi chính sách “chia để trị” thâm độc của các triều đại phong kiến phương Bắc, thực dân, đế quốc phương Tây, nay vẫn chìm sâu trong chia rẽ, ly tán, thù hận mải miết do hậu quả lịch sử để lại. Với vị trí mặt tiền đắt giá nằm ở ngay cửa ngõ khu vực sầm uất giao thương của thế giới, may mắn thay và cũng bất hạnh thay khi nó trở thành mục tiêu giành giật, thao túng giữa các cường quốc. “Nhờ” (“Do”) những thứ “đắc địa” này mà hiếm có người dân nước nào quan tâm, bình luận và chém gió về chính trị nước mình và thế giới sôi động bằng dân Việt.

Chuyện phổ biến trong các gia đình miền Nam, người theo cách mạng, người theo chính quyền VNCH cùng ăn uống, sinh hoạt chung với nhau, va chạm nhau chan chát do xung đột "lý tưởng", "quan điểm chánh trị" nhưng vẫn hòa bình, yêu thương, tương trợ nhau trong đời sống xã hội. Hiếm có nước nào trên thế giới, bất chấp kỳ thị cấm vận, tuyên truyền chia rẽ, kích động hận thù nhưng nguồn kiều hối ào ạt đổ về nước, phần không nhỏ là từ những con người vì lý do chính trị, kinh tế phải rời bỏ đất nước gửi cho thân nhân, đầu tư bất động sản, tài chính ở quê hương!

Fb Bao Bất Đồng lấy ví dụ sinh động về tình cảnh này như:

Hàng xóm của dượng có hai anh bạn thân ngộ lắm ,anh thì máu cách mệnh chảy rần rật , anh kia thì thù chế độ. Hai anh ngồi nhậu với nhau một hồi là bắt đầu diễn cái bài :
- tau với mày là bạn thân cơ mà mai này có biến ,phải cầm súng , có gặp nhau thì cũng không nương tình. Tau sẽ phải bắn vào mày vì lý tưởng ...
Anh này nói anh kia gật gù rồi cả hai rưng rưng cứ như sắp phải bắn nhau thật , sến sẩm vãi đái. Có khi xỉn quắt cần câu anh này nói với anh kia :
- tau sẽ bắn mày nhưng vợ con mày tao sẽ lo lắng, chăm sóc hết mình như người nhà của tau. Tau dzới mày là bạn mà đúng không ...
Anh này nói xong anh kia khóc rưng rức ...
Hơn hai chục năm trôi qua hai anh nay đã có sui gia cả ,đã bao nhiêu lần hai anh diễn tuồng "biệt ly" mà đế chế ta vẫn vững như bàn thạch, nghe nói lâu rồi hai ảnh đã thôi khóc lóc khi nhậu với nhau
”.
Mới đây, “một chuyên gia cách mạng màu” được Việt Tân huấn luyện đưa về nước Phạm Lê Vương Các giãi bày trên facebook việc anh này bày tỏ ngạc nhiên khi chứng kiến người dân Bắc chém gió chính trị, chửi bới lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quan chức địa phương “đã đời” nơi công cộng, nhằm ám chỉ dân Bắc - cái nôi của “chế độ cộng sản” mà tự do ngôn luận, tự do chính kiến quá phát triển, sự quan tâm đời sống chính trị hơn hẳn dân Nam - nơi được thừa hưởng chế độ “văn minh Tây phương” nhờ sự cai trị của Mỹ và chính quyền Cờ vàng rất nhiều.
Nguyễn Chí Đức, người từng là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam ly khai tìm đến các “đảng phái” núp bóng “đấu tranh dân chủ”, đã nhận ra sự hiện thực rằng, Đảng cộng sản Việt Nam tuy mang tiếng là “độc đảng”, “độc tài” nhưng lại giữ được sự dân chủ trong sinh hoạt, ý kiến “bất đồng”, “đối lập” được đưa ra, bảo lưu trong sinh hoạt tập thể đảng cơ sở, trái ngược hẳn với các hội nhóm, đảng phái mang danh “đấu tranh dân chủ, đa nguyên, đa đảng” kia lại độc tài, phi dân chủ, bịt miệng…thành viên của nó ngay khi nó mới còn phôi thai. Giờ đây, anh này từ một biểu tượng của “phong trào biểu tình” trở thành gương mặt hăng hái chiến đấu, vạch mặt “dân chủ cuội”, “dân chủ cờ vàng” hay “dân chủ lưu manh”.

Từ một vài tiếng nói lạc lõng, nay trở nên phổ biến khi khắp cả cái dàn tự nhận “đấu tranh dân chủ” cùng ca các điệp khúc “bất mãn” với “phong trào dân chủ” hay các “nhà dân chủ”. Nguyễn Lân Thắng chán ngán với “những gương mặt ông già bà cả quen thuộc lê lết từ chiếu nọ đến chiếu kia”, Mai Dũng ta thán về những trò “đâm sau lưng chiến sỹ” dẫn đến “phong trào dân chủ công an chưa đánh đã tự chết”, Huỳnh Thục Vy đau khổ vì “sự đố kị làm yếu phong trào”, người đẹp Bánh bèo tre bày tỏ kinh tởm về “biển hiện bệnh hoạn, biến thái” của những kẻ tự nhận “đấu tranh dân chủ”, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh sau khi thấm đòn vì “tội” nhận giải thưởng nhân quyền khủng nay đang bị tố cấu kết với các “dư luận viên cao cấp” đánh phá đồng bọn, Đoan Trang gọi tất cả những ai “bất đồng quan điểm” với cô ả cùng tập đoàn yêu cây là “dư luận viên và những người có tư duy như dư luận viên”…Ở các góc độ và biểu hiện “bất mãn” khác nhau, bộ mặt của cái gọi là “phong trào dân chủ” ngày càng thê thảm, rệu rã. Đây là nguyên nhân này sinh vô số những nick, fanpage ảo hay thật của những người “đấu tranh dân chủ”, am hiểu và thông thuộc các “vấn đề nội bộ” đang tìm cách cứu vãn hay đòi đập bỏ cái gọi là “phong trào dân chủ” thối nát hiện nay, hô hào xây dựng phong trào dân chủ mới, tử tế hơn, lấy lại hình ảnh, uy tín với người dân trong nước và quốc tế. các facebook như Tony Ngo, Ly-cu-tê, Viet Duc Le, Những Nhà Dân chủ độc tài, ….trở thành “diễn đàn nóng bỏng nhất” trên mạng Internet hiện nay. Hiếm có công an hay an ninh nước nào rảnh tay và “vô trách nhiệm” như ở xứ này khi cứ để các phe phái dân chúng chia thành “đỏ” và “vàng”, “DLV” hay “dân chủ viên”…mổ nhau, chửi bới, thóa mạ như cái chợ trên mạng, không theo bất cứ “luật” hay “nguyên tắc giao tiếp” nào.

Qua các clip phỏng vấn người dân và các “nhà dân chủ” của Việt Vision, Win win Việt Nam… vừa qua cho thấy, người dân Việt Nam rất quan tâm đến chính trị, rất “xoi mói” các tiếng nói đối lập, đối nghịch với Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay. Ấy vậy mà đất nước đến nay vẫn bình yên bất chấp các  nguồn tiền và sự nhúng tay của các cơ quan tình báo, chuyên gia lật đổ hàng đầu thế giới Tây phương đã và đang ào ạt kéo vào Việt Nam. Dường như các phong trào đối lập, chống phá tự nó suy tàn trước cơ chế “tập trung dân chủ” hiện nay!

Từ thực tế này, tác giả hoàn toàn đồng tình với bình luận của fb Bao Bất Đồng:

Chế độ này đáng yêu ở chỗ “nó cho phép những người không ưa nó lên Facebook chửi nó xoen xoét và những người bạn, người thân khác biệt quan điểm chánh trị dẫu cãi nhau văng nước bọt ướt mặt nhau thì cũng không bao giờ phải bem nhau ngoài phố, trên quảng trường. Chế độ này đáng iu vì nó quá ổn định”, và “Uy Kiên hai phe nện nhau hàng ngày , Thái Gay thì Áo vàng áo đỏ chửi nhau rồi vật nhau, lâu lâu nổ cái ầm mấy chục vong đầu mình cù lẳng mỗi khúc một nơi, Nam Hàn - Bắc Hàn cũng là dân Triều Tiên cơ mà ghét nhau như chó mèo sau 70 năm chia cắt . ... Còn nhiều lắm những đất nước không được bình yên ,bá tánh sáng sớm bước ra khỏi nhà với bao âu lo.
Các vương triều phong kiến Việt Nam luôn đặt 4 chữ "Quốc thái Dân an" lên hàng đầu. Ông vua nào làm được điều này là đạt chuẩn vua ngon lành cành đào. Đế chế XHCN ở ta đã làm được điều này mấy chục năm nay . Có quốc thái dân an thì mới thoát ra khỏi nhóm nước nghèo , kinh tế mới lên hạng 42 của thế giới. Đất nước ta còn nhiều tiêu cực , nhiều mục tiêu chưa đạt được, để khắc phục , xây dựng thì "quốc thái dân an" vẫn là thứ cần thiết , đúng phỏng các anh các chị ?
Các anh các chị hãy cứ chửi chế độ này bất kỳ điều gì các anh các chị không ưng , chửi chết cụ các lãnh tụ cũng được , lãnh tụ An Nam thì rảnh đéo đâu mà kiện tụng các anh các chị ra tòa như lãnh tụ Đức , Sing ...nên các anh các chị không phải xoắn.
Nhưng ....
Đứa nào cổ động cho loạn lạc , ly khai, nội chiến... động chạm đến cái nền móng "Quốc Thái Dân An" , thành tựu của đế chế ta thì các anh các chị vả méo loa nó cho dượng, dượng ưng
”.
Võ Khánh Linh