Saturday, November 30, 2024

Một báo cáo "láo"

 

Tổ chức Freedom House có trụ sở tại Mỹ, chuyên về dân chủ, nhân quyền, ngày 16/10/2024 vừa ra một bản báo cáo "Freedom on the net" năm 2024 để chỉ về mức độ tự do dân chủ ở các quốc gia và lãnh thổ trên toàn thế giới trên mạng. Trong bản báo cáo này, Freedom House xếp Việt Nam đạt 22/100 điểm - hàng thấp kém nhất thế giới. Theo đó, nhóm thấp kém nhất này bao gồm các quốc gia không có nhân quyền, không có tự do internet: không được truy cập vào mạng xã hội hay các nội dung quốc tế, bị cấm phát ngôn trên không gian mạng, không có quyền bầu cử, không có quyền tự do đi lại, không được hội họp...

Trong tiêu chí về phương tiện truyền thông độc lập và tự do trên không gian mạng, Freedom House cho rằng Việt Nam đã yêu cầu Facebook và Google kiểm duyệt một số nội dung mà Việt Nam cho rằng vi phạm an ninh quốc gia, thông tin không chính xác, giả mạo thông tin... Chuyên gia của tổ chức này cho biết Chính phủ Việt Nam hạn chế người dân truy cập mạng xã hội và hạn chế tối đa quyền được phát ngôn trên internet. Người dân Việt Nam không được bày tỏ ý kiến cá nhân trong đời sống và không được bày tỏ quan điểm, chia sẻ thông tin đối lập.

Rõ ràng là một báo cáo lừa đảo. Hàng triệu người Việt mỗi ngày đang sử dụng hàng chục MXH như: Zalo, Tinder để tương tác; sử dụng Facebook, Instagram để kết nối, tương tác hay sống “ảo”; Telegram trao đổi các tài liệu mỗi ngày... Thế mà vẫn bảo không có tự do. Đây thật sự là đánh giá khó hiểu của 1 tổ chức đến từ đất nước đã từng block hết nick của Tổng thống Donald Trump (Twitter trước khi bị Musk mua lại từng coi nội dung ông Trump đăng tải là độc hại và khóa nick của ông ta). Mặt khác, Microsoft đã từng xếp Việt Nam vào hàng các nước kém văn minh nhất thế giới trên Internet. Nếu không có tự do trên không gian mạng thì làm gì có cái đánh giá trên. Nhiều người không biết Freedom House là gì, nhưng không nhiều người không biết tới Microsoft.

Freedom House cho rằng Việt Nam không được bày tỏ đức tin tôn giáo của mình ở nơi riêng tư và khu công cộng. Quyền tự do tôn giáo Việt Nam bị hạn chế và căng thẳng. Các tôn giáo không được công nhận không được phép hoạt động.

Về mặt pháp luật, Free House đánh giá Việt Nam ở mức kém khi duy trì án tử hình cho các tội như giết người, buôn bán ma túy...

Về một số đơn vị NGO - nói nôm na là các tổ chức phi chính phủ bị cấm hoạt động, hoặc bị giới hạn hoạt động đến mức gần như không phát sinh hoạt động. Cần biết rằng các NGO ở Việt Nam vẫn được tham gia vào các hoạt động hỗ trợ người yếu thế, gặp khó khăn, tình nguyện viên bảo vệ môi trường, từ thiện.

Freedom House cũng vu cáo Việt Nam phân biệt đối xử với người dân tộc thiểu số thông qua việc cấm người dân tộc thiểu số tham gia vào việc học tập và việc làm. Nhận định này là một trong những nhận định vô lý nhất, khi người dân tộc thiểu số ở Việt Nam được hỗ trợ về giáo dục, việc làm, tiếp cận với điện, đường, trường, trạm... rất rõ ràng. Chính UNDP - Chương trình Phát triển Liên hợp quốc đã ngợi khen Việt Nam là một trong số ít các quốc gia duy trì, cân bằng và quan tâm đến lợi ích của các nhóm dân tộc thiểu số. Freedom House và UNDP, chắc chắn UNDP đáng tin hơn rồi.

Về cơ bản, Việt Nam bị Freedom House đánh giá "kém về mọi mặt" liên quan đến nhân quyền, tự do dân chủ hơn so với năm 2022. Đặc biệt ở các tiêu chí tự do internet, tự do bầu cử...bị đánh giá thấp hơn các năm trước.

Vậy nên cái báo cáo kia là một báo cáo láo!


 

Thursday, November 14, 2024

Phản bác luận điệu “đàn áp tôn giáo”: Chính sách hỗ trợ xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự!

 


Một số báo cáo nhân quyền từ Bộ Ngoại giao Mỹ, USCIRF, hoặc ý kiến của vài NGO, nhân viên ngoại giao, dân biểu phương Tây thường cho rằng Việt Nam “đàn áp tôn giáo,” “hạn chế xây dựng cơ sở thờ tự” hay “không cho phép người dân phát triển nơi hành lễ.” Những nhận định này không xem xét đầy đủ các chính sách ưu đãi của Nhà nước Việt Nam, đặc biệt trong hỗ trợ đất đai, xây dựng, sửa chữa công trình tôn giáo.

Trên thực tế, Việt Nam có hệ thống pháp lý minh bạch, các văn bản liên quan đến đất đai và tín ngưỡng, tôn giáo cho phép và thậm chí khuyến khích tổ chức tôn giáo xây dựng, tu sửa chùa chiền, nhà thờ, đền, miếu… nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số để đáp ứng nhu cầu tâm linh.

Hiến pháp 2013 (Điều 24) khẳng định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, có theo hoặc không theo tôn giáo nào, và Nhà nước tôn trọng các hoạt động tôn giáo hợp pháp. Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo 2016 quy định rõ các tổ chức tôn giáo được đăng ký hoạt động, có tư cách pháp nhân, được quyền sử dụng tài sản cho mục đích tôn giáo, bao gồm đất đai và công trình xây dựng. Thủ tục xây, sửa cơ sở thờ tự nếu đáp ứng đúng quy hoạch, mục đích tôn giáo, thì Nhà nước chấp thuận. Luật Đất đai 2013 cùng nghị định, thông tư hướng dẫn, đã quy định việc giao đất, cho thuê đất hoặc cấp quyền sử dụng đất cho tổ chức tôn giáo để xây dựng cơ sở tôn giáo. Ở nhiều địa phương, chính quyền cấp đất miễn phí hoặc hỗ trợ thủ tục hành chính cho cơ sở tôn giáo, đặc biệt với các vùng dân tộc thiểu số có nhu cầu xây chùa, nhà thờ, thánh thất…Chính sách tạo điều kiện xây, sửa công trình tôn giáo phản ánh tinh thần ICCPR (Điều 18) về quyền tự do biểu đạt niềm tin, miễn là không vi phạm an ninh, trật tự, môi trường hay quyền của người khác.

Nhiều tỉnh, thành phố chủ động cấp đất, bàn giao vị trí thuận lợi để xây thêm chùa, nhà thờ. Ví dụ: TP Hồ Chí Minh đã giao 7.500 m² đất cho Tổng Liên hội Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (Miền Nam) để xây Viện Thánh Kinh Thần học. Tỉnh Đắk Lắk đã giao hơn 11.000 m² đất cho Tòa Giám mục Buôn Ma Thuột mở rộng cơ sở. Tỉnh Quảng Trị mới giao thêm 15 ha đất cho giáo xứ La Vang để nâng cấp Trung tâm hành hương.

Tính đến nay, khoảng 70% cơ sở tôn giáo đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, góp phần bảo đảm pháp lý để tu bổ, mở rộng. Phần còn lại đang trong quá trình hoàn thiện thủ tục, không có chuyện “ngăn cấm” hoặc “bác bỏ” vô cớ.

Đặc biệt, Nhà nước rất quan tâm đầu tư phát triển tôn giáo vùng đồng bào dân tộc thiểu số, như: Cho tu bổmở rộng chùa Nam Tông Khmer, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, nhiều ngôi chùa cổ đã được tôn tạo, giữ gìn di sản văn hóa. Nhà nước hỗ trợ quy hoạch đất, tài chính hạ tầng; nhiều chùa mới xây lên, đáp ứng nhu cầu tu học cho đồng bào dân tộc Bana, Êđê…Không ít trường hợp chính quyền cấp đất, cho phép xây dựng nhà nguyện Tin Lành ở bản xa xôi, tạo điều kiện bà con sinh hoạt tôn giáo hợp pháp.

Với những cơ sở thờ tự xuống cấp, chính quyền phối hợp ban quản lý di tích (nếu được xếp hạng) hoặc tổ chức tôn giáo để kêu gọi quỹ, thực hiện tu sửa. Có sự đồng thuận giữa Nhà nước và các chức sắc trong việc bảo tồn yếu tố lịch sử, văn hóa, thẩm mỹ tôn giáo.

Một số trường hợp chậm trễ hoặc ngừng thi công thường do không đủ hồ sơ, xây trái phép trên đất không quy hoạch, không phải “ngăn cấm tôn giáo.” Nếu tuân thủ quy hoạch, không lấn chiếm đất công… thì tổ chức tôn giáo vẫn được chính quyền ủng hộ làm thủ tục xây dựng nhanh chóng.

Những lễ hội như Đại lễ Phật Đản Vesak, Ngày hội Công giáo, Đại hội Tin Lành… có quy mô lớn, thường tổ chức tại các trung tâm tôn giáo mới mở rộng, cải tạo. Sự đa dạng này trái ngược luận điệu “đàn áp, thu hẹp không gian tôn giáo.”

Tóm lại, “chính sách hỗ trợ xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự” đã thể hiện thiện chítrách nhiệm của Nhà nước Việt Nam trong bảo đảm tốt nhất quyền tự do tôn giáo, đặc biệt cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Các luận điệu “đàn áp” hay “hạn chế tôn giáo” thiếu cơ sở, trái ngược với thực tế những công trình thờ tự khang trang, ngày càng rộng mở, và luôn nhận được sự hỗ trợ tích cực từ chính quyền.

 

Tuesday, November 12, 2024

Phản bác luận điệu vu khống Việt Nam “buôn người,” “bỏ rơi lao động ở nước ngoài”

 


Thời gian qua, Bộ Ngoại giao Mỹ, một số tổ chức quốc tế về nhân quyền, hoặc các tổ chức phản động lưu vong (như BPSOS) thường đưa ra các cáo buộc một chiều rằng “Việt Nam buôn người,” “không bảo vệ lao động di cư,” hay “bỏ rơi người lao động ở nước ngoài,” v.v. Luận điệu này thiếu căn cứ, không phản ánh đúng thực trạng.

Thực tế, Việt Nam có khung pháp lý chặt chẽ, đầy đủ để phòng chống tội phạm mua bán người, bảo vệ quyền con người nói chung, và bảo vệ quyền lợi của người lao động nói riêng. Ngay tại các diễn đàn quốc tế, Việt Nam cũng được ghi nhận vì nỗ lực xây dựng, hoàn thiện pháp luật, cũng như chống mọi hành vi buôn người.

Luật Phòng, chống mua bán người (2011)văn bản chuyên ngành đầu tiên, đưa ra các quy định phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý các hành vi mua bán người, quy định biện pháp phòng ngừa, điều tra, xét xử tội phạm; quy trình nhận diện, tiếp nhận, hỗ trợ nạn nhân; hợp tác quốc tế; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Bộ luật Hình sự hiện hành quy định tội danh chi tiết, như Tội mua bán người (Điều 150), tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151). Nhiều tình tiết tăng nặng được bổ sung để xử lý nghiêm. Các văn bản luật này đều tương thích với Công ước LHQ. Việt Nam nội luật hóa các chuẩn mực quốc tế, như Nghị định thư về phòng ngừa, trừng trị, trấn áp tội buôn bán người, đặc biệt phụ nữ và trẻ em (Nghị định thư Palermo) của Liên Hợp Quốc.

Bên cạnh đó Nghị định 09/2013/NĐ-CP, Nghị định 62/2012/NĐ-CP quy định căn cứ xác định nạn nhân, bảo vệ an toàn cho nạn nhân và người thân; thủ tục đưa nạn nhân về nước, hỗ trợ hòa nhập cộng đồng. Nghị định 94/2020/NĐ-CP (điều chỉnh một phần): hướng dẫn tổ chức bộ máy, trách nhiệm các cơ quan, qua đó tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về phòng chống mua bán người. Chính phủ ban hành Chương trình phòng, chống mua bán người theo giai đoạn (mới nhất 2021-2025), giao nhiệm vụ cho Ban Chỉ đạo 138/CP tổ chức thực hiện. Hàng loạt kế hoạch hành động, đợt cao điểm tấn công tội phạm mua bán người được triển khai trên phạm vi toàn quốc….Luật Việt Nam tương thích UNTOC (Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia) ghi nhận tội mua bán người là tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, có quy định về hiệp đồng phối hợp quốc tế để truy bắt và đã ký các hiệp định tương trợ tư pháp và hợp tác với các quốc gia lân cận (Campuchia, Lào, Trung Quốc…) nhằm trao đổi thông tin, truy bắt tội phạm, giải cứu nạn nhân. Việt Nam là thành viên ACTIP (Công ước ASEAN về phòng, chống mua bán người) và đã “nội luật hóa” hầu hết nội dung ACTIP vào hệ thống luật quốc gia, bao gồm quy định hình sự hóa hành vi mua bán người, bảo vệ nạn nhân, phòng ngừa, hợp tác quốc tế…Tiến trình đang tiếp tục sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống mua bán người (2011) để phù hợp hơn nữa với ACTIP. Các quy định pháp luật nêu rõ: tôn trọng, bảo vệ, đảm bảo quyền và lợi ích của nạn nhân bị mua bán, chống tái nạn nhân hóa. Chỉ có tội phạm mua bán người mới bị trừng trị, không có chuyện “đàn áp dân thường” như các thông tin xuyên tạc nêu.

Theo thống kê của Ban Chỉ đạo 138/CP, từ 2012 đến 2023, hàng nghìn vụ mua bán người bị phát hiện, xử lý, hàng nghìn nạn nhân được giải cứu. Tình hình tội phạm có xu hướng giảm từ 2018 trở đi, số vụ mua bán người giảm đáng kể so với giai đoạn trước. Các địa phương tiếp nhận, hỗ trợ nạn nhân tái hòa nhập; trợ giúp pháp lý, y tế, tâm lý. Chính phủ có Chương trình hành động lồng ghép với mục tiêu xóa đói giảm nghèo, nhất là tại vùng sâu, vùng xa – nơi đồng bào dễ bị lôi kéo, lừa bán. Việt Nam ký các hiệp định với Lào, Campuchia, Trung Quốc… phối hợp phòng chống tội phạm, trao trả nạn nhân an toàn. Cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam luôn bảo hộ công dân, can thiệp hỗ trợ khi phát hiện lao động bị lừa đảo, bóc lột, thực hiện nghĩa vụ theo pháp luật quốc gia và quốc tế.

BPSOS và một số tổ chức chống đối lưu vong thường thổi phồng, gán ghép “nô lệ thời hiện đại” với lao động Việt Nam ở nước ngoài. Họ bỏ qua khung pháp lý, số liệu cứu hộ, hỗ trợ nạn nhân, chỉ trích bằng luận điệu xuyên tạc “chính quyền Việt Nam bán công dân”. Thực tế Việt Nam có chính sách bảo vệ công dân rõ ràng. Người lao động Việt Nam đi làm ở nước ngoài theo Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Các doanh nghiệp dịch vụ, cùng Chính phủ, ký kết hiệp định song phương để bảo đảm điều kiện, thu nhập, bảo hộ. Trường hợp bị môi giới lừa đảo, lao động gặp nạn, Chính phủ chỉ đạo cơ quan đại diện ngoại giao can thiệp, đưa về nước. Nhiều ví dụ thực tế ở Campuchia, Đài Loan, Trung Quốc… chứng minh không có chuyện “bỏ rơi”. Tội phạm mua bán người bị xử lý, chứ không dung túng, các bản án nghiêm khắc về tội mua bán người thể hiện quyết tâm không dung túng cho bất kỳ hành vi nào xâm phạm nhân phẩm, quyền con người. Đó cũng là cách Việt Nam “bảo đảm quyền con người thực sự,” không vì cớ tôn giáo, sắc tộc hay chính trị nào mà dung thứ việc xâm hại công dân.

Khung pháp lý phòng chống mua bán người ở Việt Nam (Luật Phòng, chống mua bán người 2011, Bộ luật Hình sự, các Nghị định…) toàn diện, rõ ràng, tương thích với Công ước, Nghị định thư quốc tế (UNTOC, ACTIP…). Việt Nam nỗ lực đấu tranh tội phạm mua bán người, hỗ trợ nạn nhân, ký kết các hiệp định quốc tế và nội vùng ASEAN. Nhiều vụ giải cứu nạn nhân, hỗ trợ hồi hương, minh chứng không có chuyện “bỏ rơi” lao động ở nước ngoài. Những cáo buộc từ Bộ Ngoại giao Mỹ, BPSOS hay tổ chức quốc tế thiếu thiện chí về “Việt Nam buôn người,” “phớt lờ công dân” là phiến diện, đánh tráo khái niệm, bỏ qua bằng chứng pháp lý, thực tiễn. Việt Nam khẳng định tiếp tục hoàn thiện pháp luật, không dung túng tội phạm, bảo vệ nhân phẩm, quyền con người, nhất là phụ nữ, trẻ em, lao động di cư – phù hợp chuẩn mực nhân quyền toàn cầu.

Tóm lại, khung pháp lý hoàn thiệnquyết tâm thực thi của Chính phủ Việt Nam trong phòng chống mua bán người là câu trả lời rõ ràng, phản bác mọi vu cáo “mua bán, bỏ rơi lao động.” Mọi luận điệu trái chiều thiếu thiện chí đều bị bằng chứng và thành tựu thực tiễn phủ nhận.