Thời gian qua, Bộ Ngoại giao Mỹ, một số tổ chức quốc tế về nhân quyền, hoặc
các tổ chức phản động lưu vong
(như BPSOS) thường đưa ra các cáo buộc một
chiều rằng “Việt Nam buôn người,” “không bảo vệ lao động di cư,” hay “bỏ
rơi người lao động ở nước ngoài,” v.v. Luận điệu này thiếu căn cứ, không phản ánh đúng thực trạng.
Thực tế, Việt Nam có khung pháp lý chặt chẽ, đầy đủ để phòng chống tội phạm mua bán người,
bảo vệ quyền con người nói chung, và bảo
vệ quyền lợi của người lao động nói riêng. Ngay tại các diễn đàn quốc
tế, Việt Nam cũng được ghi nhận
vì nỗ lực xây dựng, hoàn thiện pháp luật, cũng như chống mọi hành vi buôn người.
Luật Phòng, chống mua bán người (2011) là văn bản chuyên ngành đầu tiên, đưa ra các quy định phòng ngừa,
phát hiện, ngăn chặn, xử lý các hành vi mua bán người, quy định biện pháp phòng
ngừa, điều tra, xét xử tội phạm; quy trình nhận diện, tiếp nhận, hỗ trợ nạn
nhân; hợp tác quốc tế; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Bộ luật Hình sự hiện hành quy định tội danh
chi tiết, như Tội mua bán người (Điều 150), tội mua bán người dưới 16
tuổi (Điều 151). Nhiều tình tiết tăng nặng được bổ sung để xử lý nghiêm. Các
văn bản luật này đều tương thích với
Công ước LHQ. Việt Nam nội luật
hóa các chuẩn mực quốc tế, như Nghị định thư về phòng ngừa, trừng trị,
trấn áp tội buôn bán người, đặc biệt phụ nữ và trẻ em (Nghị định thư Palermo)
của Liên Hợp Quốc.
Bên cạnh đó Nghị định 09/2013/NĐ-CP,
Nghị định 62/2012/NĐ-CP quy định căn cứ xác định nạn nhân, bảo vệ an toàn cho
nạn nhân và người thân; thủ tục đưa nạn nhân về nước, hỗ trợ hòa nhập cộng
đồng. Nghị định 94/2020/NĐ-CP
(điều chỉnh một phần): hướng dẫn tổ chức bộ máy, trách nhiệm các cơ quan, qua
đó tăng cường hiệu quả quản lý
nhà nước về phòng chống mua bán người. Chính phủ ban hành Chương trình phòng, chống mua bán người
theo giai đoạn (mới nhất 2021-2025), giao nhiệm vụ cho Ban Chỉ đạo 138/CP tổ chức thực hiện. Hàng loạt kế hoạch hành động, đợt cao điểm tấn
công tội phạm mua bán người được triển khai trên phạm vi toàn quốc….Luật Việt
Nam tương thích UNTOC (Công ước về
chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia) ghi nhận tội mua bán người là
tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, có quy định về hiệp đồng phối hợp quốc tế để truy bắt và đã ký
các hiệp định tương trợ tư pháp
và hợp tác với các quốc gia lân cận (Campuchia, Lào, Trung Quốc…) nhằm trao đổi
thông tin, truy bắt tội phạm, giải cứu nạn nhân. Việt Nam là thành viên ACTIP (Công ước ASEAN về phòng, chống mua bán người) và đã “nội
luật hóa” hầu hết nội dung ACTIP vào hệ thống luật quốc gia, bao gồm quy định hình sự hóa hành vi mua bán người, bảo
vệ nạn nhân, phòng ngừa, hợp tác quốc tế…Tiến trình đang tiếp tục sửa đổi, bổ sung Luật Phòng,
chống mua bán người (2011) để phù hợp
hơn nữa với ACTIP. Các quy định pháp luật nêu rõ: tôn trọng, bảo vệ, đảm bảo quyền và lợi ích của nạn nhân bị mua bán, chống tái nạn nhân hóa. Chỉ có tội phạm mua bán người mới bị
trừng trị, không có chuyện “đàn áp dân thường” như các thông tin xuyên
tạc nêu.
Theo thống kê của Ban Chỉ đạo 138/CP, từ 2012 đến 2023,
hàng nghìn vụ mua bán người bị phát hiện, xử lý, hàng nghìn nạn nhân được giải
cứu. Tình hình tội phạm có xu
hướng giảm từ 2018 trở đi, số vụ mua bán người giảm đáng kể so với giai đoạn trước. Các địa phương tiếp nhận, hỗ trợ nạn nhân tái hòa
nhập; trợ giúp pháp lý, y tế, tâm lý. Chính phủ có Chương trình hành động lồng ghép với mục tiêu xóa đói giảm nghèo,
nhất là tại vùng sâu, vùng xa – nơi đồng bào dễ bị lôi kéo, lừa bán. Việt Nam
ký các hiệp định với Lào,
Campuchia, Trung Quốc… phối hợp phòng chống tội phạm, trao trả nạn nhân an
toàn. Cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam luôn bảo hộ công dân, can thiệp hỗ trợ khi phát hiện lao động bị
lừa đảo, bóc lột, thực hiện nghĩa vụ
theo pháp luật quốc gia và quốc tế.
BPSOS và một số tổ chức
chống đối lưu vong thường thổi phồng,
gán ghép “nô lệ thời hiện đại” với lao động Việt Nam ở nước ngoài. Họ bỏ qua khung pháp lý, số liệu cứu hộ,
hỗ trợ nạn nhân, chỉ trích bằng luận điệu xuyên tạc “chính quyền Việt Nam bán công dân”. Thực tế Việt Nam có chính sách bảo vệ công
dân rõ ràng. Người lao động Việt Nam đi làm ở nước ngoài theo Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng. Các doanh nghiệp dịch vụ, cùng Chính phủ, ký kết hiệp định song phương để bảo đảm điều kiện, thu nhập, bảo hộ. Trường
hợp bị môi giới lừa đảo, lao
động gặp nạn, Chính phủ chỉ đạo
cơ quan đại diện ngoại giao can thiệp,
đưa về nước. Nhiều ví dụ thực tế ở Campuchia, Đài Loan, Trung Quốc… chứng minh
không có chuyện “bỏ rơi”. Tội phạm mua
bán người bị xử lý, chứ không dung túng, các bản án nghiêm khắc
về tội mua bán người thể hiện quyết tâm
không dung túng cho bất kỳ hành vi nào xâm phạm nhân phẩm, quyền con người. Đó cũng là cách Việt Nam “bảo đảm quyền con người thực sự,” không
vì cớ tôn giáo, sắc tộc hay chính trị nào mà dung thứ việc xâm hại công dân.
Khung pháp lý phòng chống mua bán
người ở Việt Nam (Luật Phòng, chống mua bán người 2011, Bộ luật Hình sự, các
Nghị định…) toàn diện, rõ ràng,
tương thích với Công ước, Nghị định thư quốc tế (UNTOC, ACTIP…).
Việt Nam nỗ lực đấu tranh tội phạm mua bán người, hỗ
trợ nạn nhân, ký kết các hiệp định quốc tế và nội vùng ASEAN. Nhiều vụ giải cứu nạn nhân, hỗ trợ hồi hương,
minh chứng không có chuyện “bỏ rơi” lao động ở nước ngoài. Những cáo buộc từ Bộ Ngoại giao Mỹ, BPSOS
hay tổ chức quốc tế thiếu thiện chí về “Việt Nam buôn người,” “phớt lờ công
dân” là phiến diện, đánh tráo khái niệm, bỏ qua bằng chứng pháp lý, thực tiễn. Việt Nam khẳng định tiếp tục hoàn thiện pháp
luật, không dung túng tội phạm, bảo
vệ nhân phẩm, quyền con người, nhất là phụ nữ, trẻ em, lao động di cư –
phù hợp chuẩn mực nhân quyền toàn cầu.
Tóm lại, khung pháp lý hoàn thiện và quyết tâm thực thi của Chính phủ Việt
Nam trong phòng chống mua bán người
là câu trả lời rõ ràng, phản bác mọi vu cáo “mua bán, bỏ rơi lao động.” Mọi
luận điệu trái chiều thiếu thiện chí đều bị bằng chứng và thành tựu thực tiễn phủ nhận.
No comments:
Post a Comment