Lâu nay, Mỹ thường ra các loại báo cáo đánh giá về
tình hình nhân quyền, tự do tôn giáo và mua bán người ở quốc gia khác, trong đó
có Việt Nam với những thông tin tiêu cực. Gần đây, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ công
bố đưa Việt Nam danh sách quốc gia cần theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo
(Special Watch List - SWL) mà không đưa ra bất cứ căn cứ, cơ sở nào cho việc
xếp loại này. Lập luận về vấn đề này của Mỹ trong
các báo cáo nói trên là việc đánh đồng các tổ chức tôn giáo trái phép, “tà đạo”
như tổ chức trái phép Dương Văn Mình, Tin lành Đấng Christ… với các hoạt động
tôn giáo thuần túy để xuyên tạc, cho rằng Việt Nam đàn áp tôn giáo. Thực tế, không quốc gia nào có quyền đứng trên và
phán xét công việc nội bộ của nước khác, nhất là khi việc phán xét dựa trên
những thông tin sai lệch, vô căn cứ.
Căn cứ
theo đạo luật tự do tôn giáo quốc tế Frank R.Wolf năm 2016 (Đạo luật Wolf),
Tổng thống Mỹ được đề nghị “đưa một quốc gia vào danh sách “theo dõi đặc biệt”
(Special Watch List - SWL) vì tham gia hoặc dung túng cho những vi phạm nghiêm
trọng tự do tôn giáo trong năm trước đó, nhưng chưa đủ tiêu chí để xếp vào danh
sách “quan tâm đặc biệt” (Country of Particular Concern - CPC).
Tổng
thống Mỹ trao thẩm quyền cho Ngoại trưởng thực hiện việc phân loại CPC, SWL.
Năm 2022, 11 quốc gia bị xếp vào danh sách CPC gồm: Mi-an-ma, Trung Quốc,
Cu-ba, Eritrea, I-ran, Triều Tiên, Nicaragua, Pa-ki-xtan, Nga, Ả rập Xê-út, Tajikistan,
và Turkmenistan. Danh sách SWL có 5 quốc gia là Algeria, CH Trung Phi, Comoros
và Việt Nam.
Việc
đánh giá, phân loại một quốc gia vào danh sách CPC hay SWL được Ngoại trưởng Mỹ
công bố mà không kèm thêm bất cứ thông tin, cơ sở, căn cứ cụ thể nào về những
“vi phạm”, mà chỉ là những thông tin chung chung như nêu ở trên. Thế nào là “vi
phạm nghiêm trọng tự do tôn giáo” và việc đánh giá này dựa trên tiêu chí, cơ sở
nào? Điều này cho thấy cách ứng xử “một mình một kiểu” của Mỹ. Như Ngoại trưởng
Mỹ tuyên bố “Việc thông báo về phân loại các quốc gia phù hợp với các giá trị
và lợi ích của chúng tôi để bảo vệ an ninh quốc gia và thúc đẩy nhân quyền trên
toàn cầu. Các quốc gia bảo vệ hiệu quả vấn đề này và các quyền con người khác
sẽ hòa bình, ổn định và thịnh vượng hơn và là đối tác đang tin cậy hơn của Mỹ
so với những quốc gia không thực hiện như vậy”. Điều này cho thấy Mỹ coi giá
trị Mỹ là trên hết và các nước mong muốn làm đồng minh, đối tác tin cậy của Mỹ
sẽ phải tuân theo những tiêu chuẩn mà Mỹ đề ra.
Ngay
khi Ngoại trưởng Mỹ công bố Việt Nam trong danh sách SWL, các tổ chức, cá nhân
thiếu thiện chí, chống đối trong và ngoài nước đã lập tức tung hô, cho đây là
“chiến tích” của họ trong việc tác động Bộ Ngoại giao Mỹ, đồng thời hô hào, kêu
gọi tiếp tục các hoạt động gây sức ép với Việt Nam trong thời gian tới.
Rõ ràng
là, dù với mục đích là gì đi chăng nữa, vô hình chung Mỹ đã thể hiện sự hậu
thuẫn, dung túng đối với những tổ chức, cá nhân chống đối Nhà nước Việt Nam,
tạo cớ để họ dựa hơi để hoạt động cực đoan hơn.
Thực
tế, nhìn lại Báo cáo tình hình tự do tôn giáo mà Bộ Ngoại giao Mỹ công bố tháng
6/2022 vừa qua, phần đánh giá về Việt Nam vẫn chứa đựng những thông tin sai
lệch, xuyên tạc mà thường được số đối tượng trong và ngoài nước cung cấp nhằm
bôi xấu, hạ uy tín, hình ảnh của Việt Nam.
"Việc
Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo là dựa trên
những đánh giá thiếu khách quan cũng như các thông tin không chính xác về tình
hình tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam”. Đó là khẳng định của Phó Phát ngôn
Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng tại buổi họp báo thường kỳ Bộ Ngoại giao ngày
15/12.
Dù khi
công bố danh sách SWL, Bộ Ngoại giao Mỹ không nêu bất cứ thông tin gì là cơ sở
để xếp loại, quá trình theo dõi các báo cáo thường niên Mỹ công bố cho thấy
những thông tin trong các báo cáo này, nhất là báo cáo tình hình tự do tôn giáo
quốc tế là nguyên cớ cho việc này. Điều đáng nói là, những thông tin trong báo
cáo này dựa trên những nguồn thông tin thiếu kiểm chứng, sai lệch về tình hình
Việt Nam.
Điển
hình, báo cáo luôn đề cập đến việc đăng kí đối với các tổ chức tôn giáo ở Việt
Nam, cho rằng việc này không cần thiết, cản trở quyền tự do tôn giáo. Trong các
buổi làm việc với các cơ quan chức năng của Việt Nam, các đoàn của Mỹ cũng
thường xuyên nêu vấn đề này.
Thực
tế, hoạt động tôn giáo ở Việt Nam ngày càng cởi mở và được các cấp chính quyền
tạo điều kiện. Theo thông tin từ Ban Tôn giáo Chính phủ (Bộ Nội vụ), chỉ tính
trong gần 20 năm qua (2003-2022), số lượng chức sắc, chức việc, cơ sở thờ tự
của các tôn giáo gia tăng. Năm 2003, cả nước có 6 tôn giáo, 15 tổ chức, với 17
triệu tín đồ, khoảng 20 nghìn cơ sở thờ tự; 34 nghìn chức sắc, 78 nghìn chức
việc.
Năm
2022, chính quyền đã công nhận 43 tổ chức, thuộc 16 tôn giáo khác nhau, với
trên 26,7 triệu tín đồ, trên 55 nghìn chức sắc, khoảng 135 nghìn chức việc;
trên 29 nghìn cơ sở thờ tự… Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đã được ban hành năm 2016
nhằm cụ thể hóa quy định Hiến pháp năm 2013: “Mọi người có quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào”.
Thực
tế, tôn giáo cũng như bất cứ lĩnh vực nào của đời sống xã hội đều cần có sự
quản lý để bảo đảm môi trường lành mạnh cho sự phát triển bình đẳng của các tôn
giáo; tạo điều kiện cho tín đồ tôn giáo thực hành đức tin; ngăn chặn và xử lý
kịp thời những vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này. Việc cấp đăng kí cho các
tổ chức tôn giáo cũng không nằm ngoài mục đích trên nhằm tạo ra hành lang pháp
lý để bảo đảm các điều kiện cho các tổ chức tôn giáo được hoạt động theo đúng
tôn chỉ, mục đích, đồng hành cùng dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và phát
triển đất nước.
No comments:
Post a Comment