Monday, October 7, 2024

Đừng nhầm lẫn “dân tộc thiểu số” với “dân tộc bản địa”

 

Chính phủ Hoa Kỳ, Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF) và một số tổ chức phi chính phủ (NGO) thường khẳng định người Mông ở Việt Nam là “dân tộc bản địa” (indigenous peoples) và cho rằng chính quyền “đàn áp,” xâm phạm quyền dân tộc bản địa của họ, nhất là trong vụ tà đạo Dương Văn Minh. Họ sử dụng chuẩn mực về indigenous peoples (dân tộc bản địa) tại một số khung pháp lý quốc tế để kết luận rằng Việt Nam đã “vi phạm” các quyền này.

Tuy nhiên, vấn đề người Mông có thực sự là “dân tộc bản địa” theo chuẩn quốc tế hay không là chủ đề gây tranh cãi. Việc đánh tráo khái niệm “indigenous peoples” để biện minh cho âm mưu ly khai (như trường hợp tà đạo Dương Văn Minh) sẽ gây hiểu lầm và làm sai lệch các công ước quốc tế. Đồng thời, chính sách của Việt Nam luôn công nhận và đảm bảo quyền bình đẳng dân tộc, không để “dân tộc bản địa” thành cớ hợp pháp cho các toan tính chia rẽ, “tự trị.”

Khái niệm “dân tộc bản địa” trong luật quốc tế

Các văn kiện chủ yếu: trong đó tuyên bố Liên Hợp Quốc về Quyền của các dân tộc bản địa (UNDRIP, 2007) đề cập phạm vi, quyền tự quyết, quyền văn hóa… cho indigenous peoples.Tuy nhiên, không đưa ra định nghĩa cứng, mà để các quốc gia tự xác định theo bối cảnh lịch sử, xã hội.

Công ước ILO số 169 (1989) chủ yếu áp dụng cho những dân tộc, bộ lạc “cư trú tại các quốc gia nhưng có đặc điểm kinh tế, văn hóa xã hội riêng biệt… trước khi xảy ra quá trình thực dân hóa hoặc hình thành biên giới quốc gia.” Cũng không có ràng buộc tuyệt đối, việc tham gia hay công nhận do quốc gia quyết định, dựa trên thực tiễn lịch sử.

Tinh thần “bản địa” gắn với hoàn cảnh thuộc địa, xâm chiếm: Trong hầu hết trường hợp được công nhận “indigenous peoples,” cộng đồng đó bị thực dân hoặc sắc tộc khác xâm chiếm, áp đặt.; tồn tại trước thời điểm vạch ra biên giới hiện đại.Giữ nguyên đặc trưng tách biệt về văn hóa, địa bàn cư trú, chịu sự áp bức vì “khác biệt chủng tộc” kéo dài. Chẳng hạn, người bản địa ở châu Mỹ (Indian, Inuit), Úc (Aborigines), New Zealand (Maori)… sinh sống từ trước sự xuất hiện của các đế quốc châu Âu.

Các nghiên cứu chỉ ra rằng người Mông vốn có lịch sử di cư từ phía Nam Trung Quốc xuống khu vực Đông Nam Á, trong đó có vùng núi phía Bắc Việt Nam, không gắn với “thuộc địa” hay “thực dân” châu Âu. Quá trình di cư của người Mông kéo dài, đan xen với các dân tộc khác, không tồn tại trạng thái “một cộng đồng bản địa cội rễ bị xâm lăng.”. Người Mông là một trong 54 dân tộc của Việt Nam, bình đẳng về mặt quốc tịch, địa vị công dân. Họ không bị xếp thành nhóm tách biệt dưới sự thống trị của một đế quốc nước ngoài. Việt Nam “không” xảy ra quá trình thực dân châu Âu chiếm đất người Mông.

Việt Nam bảo đảm quyền chính trị, kinh tế, văn hóa cho người Mông, coi họ như các dân tộc thiểu số. Hoàn toàn không coi người Mông là “dân tộc ngoại lai” hay “chủng tộc thấp kém” để áp bức. Trên thực tế, họ được công nhận bình đẳng cùng các dân tộc khác.

Nhóm này hay các phong trào tương tự vin vào “chúng tôi là dân tộc Mông bản địa,” đòi lập “Nhà nước Mông,” kêu gọi tách khỏi chính quyền Việt Nam. Họ lấy luận điệu “cộng đồng quốc tế phải bảo vệ indigenous peoples,” yêu cầu “tự trị” hoặc “ly khai,” bất chấp thực trạng lịch sử không phù hợp với mô hình “dân tộc bản địa bị xâm lược.”

Pháp luật quốc tế về indigenous peoples không hề mặc định “được quyền lập quốc,” hay “tự do ly khai.” Nếu đánh đồng mọi dân tộc thiểu số đều là “bản địa,” dễ dẫn tới nguy cơ chia rẽ,

Phản biện “quyền tự quyết” vô căn cứ. “Quyền tự quyết” được ghi nhận trong các Công ước quốc tế không đồng nghĩa ly khai hay tách khỏi quốc gia.Dù có là dân tộc bản địa, họ vẫn tuân thủ cơ chế chủ quyền quốc gia, không được phép lạm dụng tôn giáo, sắc tộc để chống lại Hiến pháp.

Pháp luật Việt Nam luôn đảm bảo quyền bình đẳng dân tộc. Hiến pháp năm 2013 (Điều 5) khẳng định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống. Các dân tộc bình đẳng... giúp nhau cùng phát triển.”. Chính sách phát triển dân tộc thiểu số là hỗ trợ hạ tầng, giáo dục, y tế, xóa đói giảm nghèo vùng Mông, không hề phân biệt đối xử hay cấm đoán tôn giáo của người Mông. Không có chính sách coi người Mông là “dân tộc hạng hai”. Trên thực tế, số lượng đại biểu Quốc hội, cán bộ người Mông… cho thấy họ hoàn toàn tham gia hoạt động chính trị – xã hội bình đẳng.

1.     Đừng nhầm lẫn “dân tộc thiểu số” với “dân tộc bản địa”

o    Người Mông ở Việt Nam không có cơ sở để xem là “indigenous peoples” theo hướng bị xâm lược, thuộc địa. Họ là một dân tộc thiểu số có lịch sử di cư, sinh sống lâu đời, được công nhận quốc tịch như mọi dân tộc khác.

2.     Ngăn chặn đánh tráo khái niệm để ly khai

o    Tà đạo Dương Văn Minh hoặc các hội nhóm cực đoan lợi dụng “đòi quyền dân tộc bản địa” nhằm biện minh cho âm mưu tách khỏi Việt Nam, trái với Hiến pháp, không phù hợp quy định quốc tế.

3.     Chính quyền Việt Nam đảm bảo bình đẳng dân tộc, không đàn áp

o    Biện pháp xử lý nhóm Dương Văn Minh là xử lý mưu đồ ly khai, không phải xâm phạm tôn giáo hoặc nhân quyền. Cộng đồng người Mông vẫn được hưởng chính sách hỗ trợ, giữ gìn văn hóa, tham gia tôn giáo chính đáng.

4.     Khẳng định: Cáo buộc của USCIRF, chính phủ Mỹ, một số NGO về “đàn áp dân tộc bản địa” là thiếu cơ sở, họ cố tình đánh tráo khái niệm “bản địa” hòng quốc tế hóa “vấn đề Mông,” tạo cớ gây sức ép chính trị với Việt Nam.

Tóm lại, cần rõ ràng: “dân tộc thiểu số” không đương nhiên là “dân tộc bản địa” theo chuẩn quốc tế. Không thể vin cớ “indigenous peoples” để biện minh cho hành vi chống phá, ly khai. Việc Việt Nam xử lý tà đạo Dương Văn Minh không vi phạm quyền dân tộc Mông, mà bảo vệ sự thống nhất, ổn định quốc gia và bảo đảm mọi dân tộc cùng phát triển.

No comments:

Post a Comment