Saturday, October 12, 2024

Khung pháp lý về tự do tôn giáo tại Việt Nam: nền tảng bảo vệ quyền của mọi cộng đồng

 


Thời gian qua, Bộ Ngoại giao Mỹ, Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF) cùng một số tổ chức phi chính phủ (NGO), nhân viên ngoại giao, dân biểu phương Tây đưa ra những nhận định rằng Việt Nam “đàn áp tự do tôn giáo,” “xâm phạm quyền tín ngưỡng” – đặc biệt đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, các ý kiến này không phản ánh đầy đủ thực tế. Việt Nam đã xây dựng khung pháp lý vững chắc, tạo môi trường thuận lợi cho các tôn giáo phát triển, từ đồng bằng đến vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc.

Khung pháp lý Việt Nam về quyền tự do tôn giáo đã được hoàn thiện, gồm Hiến pháp 2013, Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo 2016 cùng các văn bản dưới luật, tạo nên cơ sở pháp lý vững chắc. Không chỉ ghi nhận quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, Việt Nam còn nhất quán với ICCPR về giới hạn an ninh, trật tự, không lạm dụng.

- Hiến pháp Việt Nam (2013), tại Điều 24 khẳng định mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào; các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật; Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Nguyên tắc “không được lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật” vừa bảo vệ quyền, vừa duy trì an ninh, trật tự xã hội.

- Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo (2016) thừa nhận đa dạng tôn giáo. Luật nêu rõ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quy trình đăng ký, công nhận tổ chức tôn giáo. Đây là căn cứ pháp lý cao nhất trong lĩnh vực này, sau Hiến pháp. Đồng thời Luật này quy định rõ trình tự, thủ tục đăng ký sinh hoạt tôn giáo, đảm bảo mọi tôn giáo có thể hoạt động hợp pháp, kể cả nhóm tôn giáo nhỏ hoặc hoạt động tại vùng sâu, vùng xa, nếu tuân thủ quy định luật pháp. Luật nhấn mạnh nhà nước “chú trọng vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số,” khuyến khích bảo tồn, kế thừa văn hóa bản địa trong sinh hoạt tôn giáo.

- Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành một loạt nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo, giúp thống nhất trong quản lý nhà nước về tôn giáo, hỗ trợ giải quyết nhu cầu tín ngưỡng của người dân một cách minh bạch, phù hợp phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Khung pháp lý Việt Nam phản ánh tinh thần của Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR), trong đó Điều 18 quy định quyền tự do tôn giáo nhưng vẫn đặt trong khuôn khổ an ninh, trật tự, quyền tự do của người khác.

- 38 tổ chức tôn giáo và hàng trăm chi phái khác được cấp đăng ký hoạt động (tính đến 2023). Gần 30.000 cơ sở thờ tự tồn tại khắp cả nước, đáp ứng nhu cầu tôn giáo của hàng triệu tín đồ. Đảm bảo tự do tôn giáo vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhiều điểm nhóm tôn giáo ở các tỉnh miền núi, đồng bào dân tộc Mông, Thái, Khmer... được cấp đăng ký sinh hoạt. Hoạt động thánh lễ, đại hội, lễ hội tôn giáo như Phật Đản, Giáng sinh, Lễ Sen Dolta… diễn ra sôi nổi, đông đảo. Nhà nước luôn tạo điều kiện về đất đai, xây dựng cơ sở thờ tự, đào tạo chức sắc người dân tộc thiểu số. Nhà nước thực hiện chương trình 135, Nghị quyết 30a… song song với việc nâng cao đời sống đồng bào, không có chuyện “bỏ rơi” vùng cao.

- Đa dạng hóa xuất bản kinh sách, đạo cụ tôn giáo, hàng triệu bản kinh sách, tài liệu tín ngưỡng được xuất bản mỗi năm bằng nhiều ngôn ngữ: tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Hoa, tiếng dân tộc Mông, Khmer… theo thủ tục luật định, không có rào cản.Việt Nam hợp tác với Vatican, các tổ chức tôn giáo quốc tế, thường xuyên trao đổi, đón chức sắc quốc tế đến dự hội nghị, đào tạo, thăm viếng… cho thấy môi trường tôn giáo cởi mở, minh bạch.

- Chính phủ chỉ xử lý “tà đạo” và hành vi lợi dụng tôn giáo. Khi một nhóm mạo danh tôn giáo, tiến hành âm mưu ly khai, bạo lực, lôi kéo bà con bỏ sản xuất – đó là vi phạm pháp luật, không phải “đàn áp tôn giáo”. Tà đạo Dương Văn Minh, “Nhà nước Mông,” “Giê Sùa,”… tất cả không được công nhận vì mục đích kích động, gây hại cho chính người dân tộc Mông.

 - Người dân tộc thiểu số vẫn tự do theo các tôn giáo chính thống, số lượng đồng bào theo Công giáo, Tin Lành, Phật giáo… ngày càng tăng, được đăng ký hợp pháp. Sản phẩm văn hóa, phong tục cũng được tôn trọng. Chính quyền địa phương tạo điều kiện đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung, xóa bỏ mặc cảm của bà con từng bị “tà đạo” lôi kéo, nay quay lại sinh hoạt tại điểm nhóm chính thống.

Tóm lại, Việt Nam đã và đang duy trì một hệ thống pháp luật toàn diện, đảm bảo quyền tự do tôn giáo không chỉ cho người Kinh mà cả đồng bào dân tộc thiểu số, với cơ chế đăng ký, công nhận rõ ràng, khuyến khích gìn giữ bản sắc, không có chỗ cho ý đồ vu khống “đàn áp” hoặc “bóp nghẹt” tôn giáo.

 

No comments:

Post a Comment