Thursday, April 27, 2023

Cảnh giác với luận điệu đòi bầu cử tự do, cải cách thể chế!

 

Trong một số năm gần đây, vấn đề “cải cách thể chế”, “cải cách chính trị”, “thay đổi thể chế chính trị “ ở Việt Nam luôn là đề tài yêu thích của các đối tượng chống phá. Các luận điệu được tung ra qua các bài viết ra vẻ phân tích, bình luận, góp ý nhưng thực chất là xuyên tạc tình hình đất nước, hạ thấp uy tín, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, hòng làm thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam.

Gần đây, trên mạng xã hội đã cho đăng tải bài viết: “Hãy cải cách thể chế bằng việc mở đường cho một cuộc bầu cử tự do” của một thành viên Việt Tân có thành tích chống phá Việt Nam đó là Nguyễn Huy Vũ. Trong bài viết này, kẻ láo xược và không kém phần ngông cuồng đã phán rằng: “Cải cách thể chế nó phải bắt đầu từ cải cách chính trị, rồi sau đó mới tới kinh tế, giáo dục, văn hóa và các lãnh vực khác” và “Hãy can đảm làm điều đó vì lợi ích dân tộc”!

Nhân cái gọi là kiến nghị của kẻ “ngựa non háu đá” Nguyễn Huy Vũ, cũng thấy cần trao đổi thêm. Với cái gọi là “Tôi xin góp ý thủ tướng là ngài”  và “Nếu các vị sợ rằng trong một cuộc bầu cử tự do các ứng viên của đảng Cộng sản sẽ thất bại trước các ứng viên của các tổ chức khác thì tôi xin đề nghị rằng các vị có thể thực hiện một lộ trình tự do hoá bầu cử như cách mà Miến Điện đã thực hiện, đó là cho phép một số ghế trong quốc hội được tranh cử tự do trước khi tiến tới một cuộc bầu cử tự do hoàn toàn”.

Không biết Nguyễn Huy Vũ cập nhật tin ở đâu để nói về tình hình Miến Điện như vậy. Vì Myanmar (ông Vũ gọi là Miến Điện) rơi vào tình trạng hỗn loạn kể từ sau cuộc đảo chính vào tháng 2/2021 với các cuộc đàn áp của quân đội nhằm vào các nhóm vũ trang sắc tộc. Chính quyền quân sự Myanmar đang chuẩn bị tổ chức bầu cử vào tháng 8/2023. Tuy nhiên theo Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinleen thì “Nhiều bên chính trị quan trọng đã tuyên bố từ chối tham gia cuộc bầu cử này, cuộc bầu cử không mang tính bao gồm và đại diện, và điều này chắc chắn sẽ gây đổ máu nhiều hơn”.

Cũng không biết Nguyễn Huy Vũ có bị tâm thần phân liệt hay gì đó không mà dám láo xược khi so sánh Việt Nam với Myanmar, một đất nước đang chìm trong bạo lực bởi những biểu tình và đàn áp biểu tình, một đất nước xếp loại mọi mặt hạng bét ở châu Á, bị nhiều nước tẩy chay và cô lập. Trong khi đó Việt Nam là đất nước rất đang ổn định về kinh tế- chính trị- xã hội, quốc phòng, an ninh và vị thế trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao và khẳng định.

Nguyễn Huy Vũ có thể “cảm phục những chiến binh trẻ tuổi của Myanmar trong cuộc biểu tình” và “lịch sử tại Myanmar sẽ ghi ơn những người đã hy sinh cho đất nước”. Còn dân tộc Việt Nam thì không, Việt Nam không chấp nhận và không bao giờ cho phép bất kỳ kẻ nào, thế lực nào lợi dụng dân chủ để chống phá đất nước. Chính Nguyễn Huy Vũ đã phải trả giá cho việc kích động người dân cướp bóc, đập phá tài sản ở Bình Dương nhân sự kiện Giàn khoan 981 năm 2014, để hiện giờ kẻ này phải sống cuộc đời của kẻ lưu vong, rồi hành nghề hèn mạt ngày đêm công kích chế độ hòng kiếm miếng ăn của các thế lực chống phá.

Cái gọi là cải cách thể chế, cải cách chính trị, thay đổi thể chế ở Việt Nam là những luận điệu hết sức thâm độc nhưng hoàn toàn không mới, Nguyễn Huy Vũ hãy thôi lải nhải đi. Chỉ cần mấy dòng trong bài đăng tải đã cho chúng ta thấy: Trí tuệ thấp kém, thủ đoạn chính trị và nhân cách đê tiện của một kẻ hoang tưởng viết “kiến nghị”.

Không phủ nhận rằng xã hội ta đang đứng trước những vấn đề nảy sinh, như: tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị các cấp là nghiêm trọng. Song con đường để vượt qua những thách thức đó chỉ có thể dựa trên khối đại đoàn kết toàn Đảng, toàn dân và niềm tin sắt đá vào con đường XHCN mà Cương lĩnh các đại hội đảng đã xác định: Đó là xây dựng và phát triển chế độ “Dân chủ XHCN”, “Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”.

Vấn đề đổi mới chính trị đã được người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 10, khóa XI, từ năm 2015 như sau: “Phải nắm vững và khẳng định: Đổi mới chính trị không phải là làm thay đổi chế độ chính trị, thay đổi bản chất của Đảng ta, Nhà nước ta, mà thay đổi cơ chế, chính sách, tổ chức, bộ máy, kiện toàn nâng cao đội ngũ cán bộ, đổi mới phương thức công tác, lề lối làm việc, cải cách hành chính, chống tệ nạm tham nhũng, lãng phí, quan liêu gây phiền hà cho dân, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các cơ quan trong hệ thống chính trị, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia”. Nếu muốn bình luận hay viết, nói gì về Việt Nam thì hãy cập nhật thông tin cho đầy đủ, chính xác với tư duy khách quan và cái tâm thật đàng hoàng, tử tế nhé Nguyễn Huy Vũ.

 

Tuesday, April 25, 2023

Đảng Cộng sản Việt Nam “chỉ đưa đến bất công và nghèo khổ”?


Gần đây trên mạng xã hội có bài viết “Một câu hỏi vô cùng ngớ ngẩn: Tại sao Việt Nam vẫn nghèo?” của Đào Tăng Dực đăng trên Baotiengdan.com vu cáo rằng: “Các chế độ độc tài, nhất là độc tài cộng sản đều là nguyên nhân lớn nhất đưa đến bất công và nghèo khổ”. Đây là luận điệu vu cáo trắng trợn nhằm hạ uy tín của Đảng, chia rẽ Đảng với dân.

Muốn đánh giá thì phải nhìn nhận một cách tổng thể, khách quan và tính đến yếu tố lịch sử nữa. Việt Nam trải qua hơn trăm năm bị bóc lột của thực dân Pháp, rồi trải qua nhiều năm chiến tranh giành độc lập, thống nhất đất nước đã làm cho nền kinh tế của chúng ta kiệt quệ. Nhưng với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản, cho đến nay, có thể nói là một sự phát triển thần kỳ. Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, toàn diện. Cùng với tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì, các mặt: chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh được bảo đảm và ổn định. Trong đó có những thành tựu rất đáng khích lệ về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội gắn bó chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế, phát triển nguồn lao động và chất lượng lao động, khoa học và công nghệ. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế hóa thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị trường tiếp tục hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát triển mạnh.Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương với các nước, tạo ra một bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại.Thành tựu đó ngày càng khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của đổi mới, khích lệ, động viên nhân dân tiếp tục hưởng ứng, góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính trị – xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước với những bước tiến cao hơn. Thành tựu này được các nước trong khu vực cũng như các đối tác có quan hệ với Việt Nam thừa nhận và xem đây là một thuận lợi trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.

Việc Đào Tăng Dực còn quy chụp rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam không phụng sự Tổ quốc và nhân dân, không đem lại nhiều tình yêu thương cho dân tộc”.Ngay sau khi lập nước, Hiến pháp năm 1946 đã thể hiện và ghi nhận rõ Nhà nước ta là Nhà nước của dân, tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam. Trải qua 37 năm đổi mới, 32 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã tổng kết và xác định: Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị.Mới đây, phát biểu tại Hội nghị thượng đỉnh trực tuyến giữa Đảng Cộng sản Trung Quốc với các chính đảng trên thế giới, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng một lần nữa nhấn mạnh, về bình diện quốc gia, việc xây dựng và thực hiện chủ trương, đường lối, cương lĩnh cần xuất phát từ nhận thức “lấy dân làm gốc”, lấy người dân là trung tâm, coi hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu cao nhất; từ đó thúc đẩy Nhà nước xây dựng, triển khai thực hiện luật pháp, chính sách phù hợp, hiệu quả và cụ thể nhằm bảo đảm phát triển theo hướng đó.Điều này có nghĩa, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN cũng đồng nghĩa với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, với mục tiêu “pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước”.Vì vậy, một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XIII mà Nghị quyết Đại hội XIII đã đề ra là “hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong sạch, vững mạnh…”./.

 

Monday, April 24, 2023

Quyền trẻ em: nỗ lực không ngừng nghỉ!

 

Sáng 27/2/2023, tại Geneva, Thụy Sĩ, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang đã dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam dự khai mạc và phát biểu tại Phiên họp Cấp cao Khóa họp thường kỳ lần thứ 52 của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (LHQ). Đây là khóa họp đầu tiên, Việt Nam tham gia với tư cách thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025. Tại Khóa họp này, đoàn Việt Nam không chỉ ghi dấu ấn đã đề xuất, soạn thảo và được thông qua Nghị quyết về kỷ niệm 75 năm Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền và 30 năm Tuyên bố và Chương trình hành động Vienna, mà còn tích cực phát biểu, đóng góp ý kiến, trình bày kinh nghiệm, kết quả, thành tựu nhân quyền của Việt Nam tại nhiều phiên họp, thảo luận về đảm bảo các quyền cụ thể như quyền nhà ở; quyền lương thực; quyền văn hóa; quyền phát triển; quyền trẻ em; quyền tiếp cận công bằng, bình đẳng, kịp thời, với giá cả hợp lý đối với vaccine ngừa COVID-19...



Trong số các quyền trên, Việt Nam đã có nỗ lực và đạt thành tựu đáng ghi nhận trong đảm bảo Quyền trẻ em.

Ở Việt Nam, tính đến năm 2022, dân số trẻ em khoảng 27,2 triệu (chiếm 28% trên tổng dân số), trong đó trẻ em nam là 14,2 triệu (chiếm 52% trên tổng dân số trẻ em), trẻ em nữ là 13 triệu (chiếm 48% trên tổng dân số trẻ em)

Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (CRC) năm 1990 và hai Nghị định thư không bắt buộc bổ sung CRC được thông qua năm 2000 (Nghị định thư về buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em; Nghị định thư về sự tham gia của trẻ em trong xung đột vũ trang.

Quyền trẻ em đã được hiến định trong Hiến pháp năm 2013: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em” và quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình 2014, Luật Trẻ em 2016; Luật Khám bệnh, chữa bệnh 2009, Bộ luật Dân sự 2015, Luật Quốc tịch 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014), Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Nhiều chính sách bảo đảm quyền trẻ em đã được ban hành: Chỉ thị số 36/CT-TTg ngày 31/12/2021 về tăng cường giải pháp bảo vệ, chăm sóc trẻ em bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh COVID-19; Quyết định số 23/QĐ-TTg ngày 07/01/2021 về việc phê duyệt Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2021-2030; Quyết định số 782/QĐ-TTg ngày 27/5/2021 về việc phê duyệt Chương trình phòng ngừa, giảm thiểu trẻ em lao động trái quy định của pháp luật giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030; Quyết định số 1248/QĐ-TTg ngày 19/7/2021 về việc phê duyệt Chương trình phòng, chống tai nạn, thương tích trẻ em giai đoạn 2021-2030; Nghị quyết số121/2020/QH14 ngày 19/6/2020 của Quốc hội về tiếp tục tăng cường hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống xâm hại trẻ em; Quyết định số 830/QĐ-TTg ngày 01/6/2021 phê duyệt chương trình “Bảo vệ và hỗ trợ trẻ em tương tác lành mạnh, sáng tạo trên môi trường mạng giai đoạn 2021-2025.

Triển khai Chương trình thúc đẩy quyền trẻ em và quyền thanh niên tại Việt Nam giai đoạn 2021-2026 nhằm giúp trẻ em ngày càng có cơ hội phát triển toàn diện, thể hiện tiếng nói, quyền tham gia của trẻ em vào các vấn đề liên quan đến trẻ em. Đến nay, cả nước đã có 14 mô hình Hội đồng trẻ em cấp tỉnh, 21 mô hình Hội đồng trẻ em cấp huyện tại 17 tỉnh, thành phố; tiếp tục nâng cao hiệu quả trên 35.000 Câu lạc bộ quyền trẻ em trong các liên đội, trên địa bàn dân cư và trong hệ thống Cung, Nhà thiếu nhi, Trung tâm hoạt động Thanh thiếu nhi; duy trì hoạt động hiệu quả của các Đội tuyên truyền măng non, phát thanh măng non tại gần 25.000 liên đội tiểu học, trung học cơ sở trên cả nước. Việt Nam đã triển khai tổ chức Diễn đàn trẻ em quốc gia mỗi 5 năm một lần và Diễn đàn trẻ em các cấp mỗi 2 năm một lần; gần đây nhất, Diễn đàn trẻ em quốc gia lần thứ 6 (năm 2019) được tổ chức tại Hà Nội với sự tham gia của 169 em nhỏ từ khắp các tỉnh, thành, các làng trẻ em SOS, Trung tâm phục hồi chức năng người khuyết tật Thụy An, Hội đồng trẻ em của 4 tỉnh, thành phố Hà Nội, TP.HCM, Quảng Ninh, Bình Định… đại diện cho 26 triệu trẻ em trên cả nước tham dự diễn đàn sẽ nói lên tiếng nói của mình..

Hàng triệu trẻ em được nhận các phần quà, các thiết bị học trực tuyến, các gói về an sinh xã hội thông qua Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam; Hội Bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam. Năm 2021, theo Tổng điều tra Dinh dưỡng toàn quốc (2018 - 2020), tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng thể thấp còi đã giảm xuống còn 19,6% so với 19,9% năm 2019, xếp ở mức trung bình trên thế giới; đã có sự tiến bộ rõ rệt về tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng của trẻ và phụ nữ mang thai vào năm 2020 so với năm 2015.

Tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ các loại vắc xin đạt 96,8% năm 2020; tỷ suất tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi năm 2020 là 22.3/1000 trẻ, năm 2021 chỉ tiêu này giảm nhẹ còn 21,6, năm 2022 chỉ tiêu này giảm nhẹ còn 20,5. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi (chiều cao/tuổi) ở trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn quốc 19,6% - mức dưới 20% - được xếp vào mức trung bình theo phân loại của WHO. Chỉ số bình đẳng giới dần đạt mức lý tưởng đối với cấp tiểu học và trung học cơ sở; năm 2022, 100% trường có chương trình giáo dục cơ bản về giới tính, phòng chống bạo lực, xâm hại, cung cấp kiến thức về HIV. Như vậy đến nay Việt Nam đang trên đà đạt được mục tiêu dinh dưỡng toàn cầu (giảm 40% suy dinh dưỡng thể thấp còi trẻ em đến năm 2025).

Đến nay đã có hai cuộc điều tra quốc gia về lao động trẻ em do Tổng cục Thống kê thực hiện vào năm 2021 cho thấy tình hình trẻ em tham gia lao động có sự chuyển biến tích cực: quy mô và xu hướng trẻ em tham gia lao động đã giảm mạnh, từ 9,6% năm 2012 xuống còn 6,9% năm 2021, đã có sự cải thiện đáng kể các hình thức bạo lực đối với trẻ em từ 5-17 tuổi. [1] Nếu như năm 2014, có tới 93% số trẻ từ 1-14 được điều tra đã từng trải qua các biện pháp kỷ luật bạo lực thì đến năm 2021, con số này còn 72,4% và giảm ở tất cả các hình thức bạo lực. Việc mở rộng các Tòa án gia đình và người chưa thành niên cũng là yếu tố quan trọng để bảo đảm tất cả trẻ em được tiếp cận công lý.

Các bộ, ngành đã thực hiện hiệu quả 05 dự án hợp tác quốc tế về: thúc đẩy bảo vệ quyền trẻ em; tăng cường hoạt động đường dây nóng tư vấn và hỗ trợ nạn nhân bị mua bán; thí điểm mô hình chăm sóc thay thế cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; phòng, chống đuối nước trẻ em; nâng cao năng lực quốc gia về phòng ngừa và giảm thiểu lao động trẻ em; làm cha mẹ trong phát triển toàn diện trẻ thơ. Dự án đã tiếp cận tới 8.100 phụ huynh, ước tính 20.000 trẻ em dưới 8 tuổi tại 27 xã có đông đồng bào dân tộc thiểu số và tỉ lệ hộ nghèo cao tại 3 tỉnh Điện Biên, Gia Lai, Kon Tum, đồng thời dự án thí điểm tại các đô thị, tiếp cận phụ huynh nghèo nhập cư tại 2 nhà máy lớn ở TP. Hồ Chí Minh.

Việt Nam đồng chủ trì Lễ kỷ niệm Ngày trẻ em thế giới tại UNICEF Việt Nam; tham gia các phiên họp về phòng, chống lao động trẻ em trong khuôn khổ diễn đàn Châu Á về kinh doanh và quyền con người do ILO tổ chức; Hội nghị Khu vực trực tuyến về Tăng cường thực hiện các chiến lược INSPIRE nhằm chấm dứt bạo lực đối với trẻ em trong thời gian trong và sau COVID-19; đồng chủ trì phiên họp “Trên tuyến đầu của giai đoạn phục hồi đảm bảo nguồn nhân lực trong lĩnh vực phúc lợi xã hội, bảo vệ trẻ em có thể hoàn thành vai trò quan trọng của mình, bài học kinh nghiệm từ đại dịch” với sự tham gia của 600 đại biểu đến từ của 25 quốc gia trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và các tổ chức quốc tế, phi chính phủ, các trường đại học.

Việt Nam đã gia nhập 25 công ước của ILO, trong đó có những công ước quan trọng như: Công ước về tuổi tối thiểu của trẻ em được tham gia vào lao động công nghiệp; Công ước về trả công bình đẳng giữa lao động nam và nữ; Công ước về không phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp…Việt Nam là một trong 15 quốc gia đi đầu trong Liên minh toàn cầu 8.7 nhằm xóa bỏ lao động trẻ em phù hợp với Mục tiêu Phát triển bền vững (SDG) 8.7. Việt Nam đã ký cam kết và cùng đưa ra Tuyên bố về Bảo vệ trẻ em khỏi tất cả các hình thức bóc lột và lạm dụng trực tuyến trong ASEAN (2019) và Tuyên bố về xóa bỏ bắt nạt trẻ em trong ASEAN trong đó có bắt nạt trẻ em trên môi trường trực tuyến (năm 2021).

Vậy nên, đại diện Nhà nước Việt Nam dám phát biểu một cách tự tin về những thành tựu trong lĩnh vực này trên diễn đàn quốc tế. Những kết quả đó cho thấy, nền kinh tế của Việt Nam đang trên đà phát triển với thực hiện tiến bộ và bảo đảm công bằng xã hội, một đặc trưng thể hiện tính ưu việt về bản chất chế độ chính trị của nước ta.

 


 [1]

Wednesday, April 19, 2023

Quyền về chăm sóc sức khỏe: thành tựu được thế giới ghi nhận!

 

Sáng 27/2, tại Geneva, Thụy Sĩ, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang đã dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam dự khai mạc và phát biểu tại Phiên họp Cấp cao Khóa họp thường kỳ lần thứ 52 của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (LHQ). Đây là khóa họp đầu tiên, Việt Nam tham gia với tư cách thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025. Tại Khóa họp này, đoàn Việt Nam không chỉ ghi dấu ấn đã đề xuất, soạn thảo và được thông qua Nghị quyết về kỷ niệm 75 năm Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền và 30 năm Tuyên bố và Chương trình hành động Vienna, mà còn tích cực phát biểu, đóng góp ý kiến, trình bày kinh nghiệm, kết quả, thành tựu nhân quyền của Việt Nam tại nhiều phiên họp, thảo luận về đảm bảo các quyền cụ thể như quyền nhà ở; quyền lương thực; quyền văn hóa; quyền phát triển; quyền trẻ em; quyền tiếp cận công bằng, bình đẳng, kịp thời, với giá cả hợp lý đối với vaccine ngừa COVID-19...Trong số các quyền trên, Việt Nam đã có nỗ lực và đạt thành tựu đáng ghi nhận trong đảm bảo Quyền về chăm sóc sức khỏe cho người dân.



Quyền về chăm sóc sức khỏe được quy định tại Điều 38 Hiến pháp 2013: “Mọi người có quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh. Nghiêm cấm các hành vi đe dọa cuộc sống, sức khỏe của người khác và cộng đồng”. Việt Nam đã có một hệ thống các văn bản pháp luật phù hợp với pháp luật quốc tế về quyền được chăm sóc sức khỏe: Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989, Luật Bảo hiểm Y tế sửa đổi bổ sung năm 2014, Luật Dược năm 2016, Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2023 (thay thế Luật Khám chữa bệnh năm 2009).

Các chính sách về xây dựng và phát triển mạng lưới y tế cơ sở trong tình hình mới đã hướng tới nâng cao năng lực cung ứng và chất lượng dịch vụ của mạng lưới y tế cơ sở, bảo đảm cung ứng đầy đủ các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu, khám chữa bệnh cho từng người dân, bảo đảm công bằng, hiệu quả trong công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân. Giai đoạn 2020-2021, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các chính sách như: Chương trình hành động thực hiện các Nghị quyết số 20-NQ/TW và Nghị quyết số 21-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác y tế, dân số trong tình hình mới; Đề án Kiểm soát Mất cân bằng giới tính khi sinh giai đoạn 2016-2025; Kế hoạch hành động Quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh sản tập trung vào chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ giai đoạn 2021-2025; Chiến lược quốc gia chấm dứt bệnh AIDS vào năm 2030... Đặc biệt, trong bối cảnh dịch COVID-19, hàng loạt chính sách ứng phó với dịch bệnh và bảo vệ sức khỏe người dân được ban hành như: Nghị quyết số 37/NQ-CP ngày 29/3/2020 về một số chế độ đặc thù trong phòng, chống dịch COVID-19; Nghị quyết số 16/NQ-CP ngày 08/02/2021 về chi phí cách ly y tế, khám, chữa bệnh và một số chế độ đặc thù trong phòng, chống dịch COVID-19; Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 26/02/2021 về mua và sử dụng vắc-xin phòng COVID-19; Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 ban hành quy định tạm thời “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả với dịch COVID-19”; Nghị quyết số 38/NQ-CP ngày 17/3/2022 của Chính phủ ban hành Chương trình phòng, chống dịch COVID-19...

Việt Nam đã đạt được tiến bộ nhanh chóng trong mở rộng tỷ lệ bao phủ y tế toàn dân, với 92,04% dân số được bao phủ bởi chương trình BHYT vào năm 2025; năm 2022, số bác sĩ, và số điều dưỡng trên 10.000 dân lần lượt là: 11,5. Việt Nam đã đạt được tiến bộ nhanh chóng trong mở rộng tỷ lệ bao phủ y tế toàn dân, với 92,04% dân số được bao phủ bởi chương trình BHYT vào năm 2025. năm 2022, số bác sĩ, và số điều dưỡng trên 10.000 dân lần lượt là: 11,5. Các đối tượng chính sách như người có công, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng kinh tế-xã hội khó khăn, trẻ em dưới 6 tuổi, người trên 80 tuổi (năm 2020, 99% người cao tuổi được cấp thẻ bảo hiểm y tế),… được ngân sách nhà nước hỗ trợ mua bảo hiểm y tế.

Hệ thống y tế dự phòng từ Trung ương đến địa phương và mạng lưới y tế cơ sở được tiếp tục củng cố và phát triển, năng lực giám sát, dự báo, phát hiện và khống chế dịch bệnh được nâng lên, công tác tiêm chủng được tăng cường. Nhờ đó, Việt Nam đã từng bước kiểm soát được dịch bệnh COVID-19, điều trị có hiệu quả các ca bệnh nặng, hiểm nghèo, được nhân dân tin tưởng, thế giới ghi nhận và đánh giá cao. Chính phủ cũng đã bước đầu triển khai có hiệu quả Chương trình Sức khỏe Việt Nam, thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ để bảo đảm an toàn thực phẩm cho người dân.

Việc đầu tư nguồn lực cho y tế luôn được quan tâm, công tác y tế và chăm sóc sức khoẻ nhân dân ngày càng được tăng cường, chất lượng dân số từng bước được cải thiện, chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh được nâng cao và từng bước giải quyết tình trạng quá tải bệnh viện tuyến trên, mở rộng mạng lưới bệnh viện vệ tinh, phát triển và nhân rộng mô hình bác sĩ gia đình; chất lượng chẩn đoán, điều trị, phục vụ được nâng lên; người dân, người bệnh hài lòng hơn. Ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong quản lý y tế, khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ nhân dân, triển khai mạnh mẽ việc tư vấn khám, chữa bệnh từ xa; lập và quản lý hồ sơ sức khỏe của toàn bộ người dân. Đã hình thành 3 trung tâm y tế chuyên sâu và đang thực hiện đầu tư xây dựng mới 5 bệnh viện tuyến Trung ương và tuyến cuối tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Số giường bệnh là 28/10.000 người vào năm 2020, vượt mục tiêu đề ra (26,5 giường). Đã phát triển y dược cổ truyền, kết hợp y dược cổ truyền với y học hiện đại. Y tế tư nhân phát triển cả về số lượng và quy mô.

Chất lượng dân số từng bước được cải thiện, tuổi thọ trung bình đến năm 2020 đạt 73,7 tuổi, tăng so với năm 2015 (73,3 tuổi). Duy trì vững chắc mức sinh thay thế từ năm 2006, tổng tỷ suất sinh năm 2020 là 2,12 con/phụ nữ, kiềm chế tốc độ tăng tỷ số giới tính khi sinh. Tầm vóc người dân Việt Nam được cải thiện rõ rệt, chiều cao trung bình của thanh niên đạt 168,1 cm đối với nam (năm 2009 là 164,4 cm) và 156,2 cm đối với nữ (năm 2009 là 153,6 cm). Các giải pháp nhằm hạn chế tai biến sản khoa tiếp tục được chú trọng; tử vong bà mẹ và trẻ em giảm.

Mạng lưới y tế cơ sở tiếp tục được duy trì rộng khắp trong cả nước, trong đó có vùng biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Đặc biệt, trong thời gian phòng chống dịch COVID-19, y tế cơ sở đã có vai trò quan trọng trong phòng chống dịch và chăm sóc sức khỏe người dân, nhất là người cao tuổi, người mắc bệnh mãn tính tại cộng đồng.     Chính phủ Việt Nam chủ trương bảo đảm tiêm vắc-xin COVID-19 miễn phí cho người dân theo các đối tượng ưu tiên theo khuyến nghị của WHO. Đến ngày 28/1/2023, tổng số mũi tiêm vắc-xin COVID-19 trên cả nước là 266.068.720, vượt mục tiêu do WHO đề ra. Chính phủ cũng thành lập Quỹ vắc-xin phòng chống COVID-19 (đến ngày 09/02/2023 đã huy động được 10.715,91 tỷ đồng), với mục tiêu tiếp nhận, quản lý, sử dụng các nguồn tài trợ, hỗ trợ, đóng góp trong nước và ngoài nước để cùng với nguồn lực ngân sách nhà nước mua, nhập khẩu  vắc-xin, nghiên cứu, sản xuất vắc-xin trong nước để tiêm chủng cho người dân, bảo đảm nguồn tài chính bền vững cho việc tiêm vắc-xin phòng COVID-19, bảo đảm quyền y tế. Chính phủ cũng đã thành lập Tổ công tác về ngoại giao vắc-xin do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao chủ trì để xúc tiến, vận động viện trợ vắc-xin , thuốc điều trị, vật phẩm y tế phòng, chống COVID-19; chuyển giao công nghệ sản xuất vắc-xin , thuốc điều trị từ đối tác song phương, đa phương. Đến nay, hầu hết các đối tác quan trọng và các nước bạn bè truyền thống đã hỗ trợ Việt Nam với hàng triệu liều vắc-xin (tính đến hết tháng 10/2021, Việt Nam đã tiếp nhận trên 107 triệu liều vắc-xin phòng COVID-19).

Với việc mở rộng hợp tác quốc tế, tăng cường chuyển giao kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực, Việt Nam đã thực hiện được các kỹ thuật cao trong y tế chuyên sâu, đạt trình độ tương đương với các nước có nền y học hiện đại trong khu vực và trên thế giới. Về cơ bản các công nghệ, kỹ thuật cao trong chẩn đoán và điều trị trên thế giới đã được đội ngũ chuyên gia lâm sàng Việt Nam tiếp cận, làm chủ và triển khai đạt kết quả tương đương với các nước tiên tiến trên thế giới trong các lĩnh vực: Nội, Ngoại, Sản, Nhi. Lần đầu tiên thực hiện thành công ghép phổi từ người cho chết não tại Việt Nam, đây là sự đột phá về khoa học và công nghệ trong Y học và là thành tích đặc biệt xuất sắc của ngành y tế Việt Nam. Bệnh viện Nhi Trung ương thực hiện thành công ứng dụng Robot trong phẫu thuật nội soi điều trị một số bệnh ở trẻ em. Phát hiện sớm, điều trị kịp thời, khống chế và đẩy lùi các dịch bệnh nguy hiểm bùng phát như: Cúm A (H7N9, H5N1), sốt xuất huyết, Tay- chân- miệng, Rubella, Sởi, Viêm màng não do vi rút, Viêm màng não do mô cầu, Ho gà, ... Đặc biệt, trong thời gian qua kết quả nghiên cứu lĩnh vực y - dược đã có những đóng góp quan trọng và kịp thời cho công cuộc phòng chống dịch COVID-19, đã cung ứng được thuốc đủ về số lượng, từng bước kiểm soát về chất lượng và giá cả hợp lý cho khám, chữa bệnh và phòng, chống dịch bệnh, thiên tai.

Tỷ lệ bác sĩ trên 10.000 dân tăng từ 8,2 bác sỹ năm 2016 lên 9 bác sỹ năm 2020, đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Sắp xếp, kiện toàn tổ chức ngành y tế theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và hội nhập quốc tế. Thực hiện công khai minh bạch giá thuốc, trang thiết bị y tế, giá dịch vụ y tế. Đẩy mạnh giao quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp y tế công lập; đổi mới phương thức chi trả dịch vụ y tế.

Trong giai đoạn 2020-2021, dù chịu tác động của đại dịch COVID-19 song phòng chống bệnh viêm gan, các dịch bệnh do nguồn nước và các bệnh truyền nhiễm khác vẫn tiếp tục được triển khai nhờ các chương trình quốc gia được thực hiện trong giai đoạn vừa qua[1]. Năm 2022, số bác sĩ, và số điều dưỡng trên 10.000 dân lần lượt là: 11,5 và 14.

Là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, Việt Nam đã chia sẻ, chung tay ủng hộ các quốc gia trong phòng chống dịch COVID-19. Bộ Y tế đã trực tiếp hoặc tham gia trao tặng cho hơn 22 quốc gia bao gồm hơn 2 triệu khẩu trang, máy thở, trang bị bảo hộ cá nhân, bộ xét nghiệm COVID 19… Với vai trò là Chủ tịch ASEAN, Việt Nam đã đề xuất thành lập Kho vật tư y tế ASEAN, tham gia tích cực vào quá trình thành lập Trung tâm ASEAN ứng phó khẩn cấp với các vấn đề y tế công cộng và các bệnh mới nổi. Việt Nam cũng đã đóng góp 50.000 USD cho Quỹ ứng phó COVID-19 của LHQ và 1 triệu USD cho COVAX và đang chuẩn bị đóng góp tự nguyện thêm 500.000 USD cho COVAX.

Vậy nên, đại diện Nhà nước Việt Nam dám phát biểu một cách tự tin về những thành tựu trong lĩnh vực này trên diễn đàn quốc tế. Những kết quả đó cho thấy, nền kinh tế của Việt Nam đang trên đà phát triển với thực hiện tiến bộ và bảo đảm công bằng xã hội, một đặc trưng thể hiện tính ưu việt về bản chất chế độ chính trị của nước ta.

 



[1] Chiến lược quốc gia phòng chng và loại trừ bệnh sốt rét ở Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 và định hướng đến năm 2030, Chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2020 và tầm nhìn 2030, Chiến lược quốc gia phòng chống và loại trừ bệnh sốt rét ở Việt Nam giai đoạn 2011-2020 và định hướng đến năm 2030; Chiến lược quốc gia chấm dứt bệnh AIDS vào năm 2030...

Monday, April 17, 2023

Quyền phát triển cho người dân: nỗ lực không thể phủ nhận!

 

Sáng 27/2, tại Geneva, Thụy Sĩ, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang đã dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam dự khai mạc và phát biểu tại Phiên họp Cấp cao Khóa họp thường kỳ lần thứ 52 của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (LHQ). Đây là khóa họp đầu tiên, Việt Nam tham gia với tư cách thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025. Tại Khóa họp này, đoàn Việt Nam không chỉ ghi dấu ấn đã đề xuất, soạn thảo và được thông qua Nghị quyết về kỷ niệm 75 năm Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền và 30 năm Tuyên bố và Chương trình hành động Vienna, mà còn tích cực phát biểu, đóng góp ý kiến, trình bày kinh nghiệm, kết quả, thành tựu nhân quyền của Việt Nam tại nhiều phiên họp, thảo luận về đảm bảo các quyền cụ thể như quyền nhà ở; quyền lương thực; quyền văn hóa; quyền phát triển; quyền trẻ em; quyền tiếp cận công bằng, bình đẳng, kịp thời, với giá cả hợp lý đối với vaccine ngừa COVID-19...Trong số các quyền trên, Việt Nam đã có nỗ lực và đạt thành tựu đáng ghi nhận trong đảm bảo quyền được phát triển cho người dân.



Quyền được phát triển của con người ở nước ta: bước tiến dài trong nhiều thập niên qua

Có thể khẳng định rằng, quyền được phát triển của con người ở nước ta đã tiến một bước rất dài trong nhiều thập niên qua. Đó không chỉ là việc ghi nhận các quyền cơ bản của công dân, thực hiện các chính sách về phát triển dân tộc, tôn giáo hay cụ thể hóa các quyền chính trị về ứng cử Đại biểu Quốc hội và Hội đồng Nhân dân. Sâu xa hơn chính là nhận thức, quyết tâm và nỗ lực của Đảng ta trong việc hiện thực hóa các giá trị phổ quát của nhân loại.

Phương châm trên là hoàn toàn nhất quán, xuyên suốt toàn bộ quá trình lãnh đạo trong thời kỳ mới, mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được Đảng ta kiên trì thực hiện. Nhân dân là nguồn cảm hứng cho Đảng, cũng là động lực của Đảng và Nhà nước ta. Đích đến cuối cùng quan trọng nhằm đảm bảo vai trò, sứ mệnh tiên phong của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân. Vì vậy, mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước luôn xem người dân là động lực, chủ thể và mục tiêu của sự nghiệp xây dựng đất nước.

Có thể nói, thành quả mà người dân Việt Nam được thụ hưởng trong gần 40 năm đổi mới về trên tất cả các bình diện kinh tế – xã hội – văn hóa là vô cùng lớn lao. Đời sống của nhân dân không ngừng được chăm lo, lĩnh vực y tế chăm sóc sức khỏe ngày càng tiến bộ, chất lượng sống của người dân được nâng lên rõ rệt. Về giáo dục, văn hóa được cải thiện, trình độ học vấn và năng lực lao động của người dân Việt Nam đã khác trước.

Đời sống văn hóa, tín ngưỡng có nhiều đổi khác, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội ở các khu vực vùng miền, chính sách dân tộc, tôn giáo ở nước ta được người dân tin tưởng, thực hiện, nền quốc phòng, an ninh được giữ vững. Tất cả những kết quả trên phản ánh tính đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong việc coi nhân dân dân là chủ thể và là mục tiêu của sự phát triển.

Tốc độ tiếp cận thông tin, nguồn lực cũng như thực hiện quyền phát triển con người là khác nhau đối với mỗi đối tượng...

Quyền được phát triển - Nhìn từ chỉ số hạnh phúc

Báo cáo đánh dấu tròn một thập kỷ Liên hợp quốc thực hiện sáng kiến thúc đẩy hạnh phúc quốc gia. Trong báo cáo lần này, chỉ số hạnh phúc của Việt Nam đã tăng từ 12 bậc, từ vị trí 77 vào năm 2022 lên vị trí 65 năm 2023. Chỉ số này tuy là một sáng kiến của Liên hợp quốc nhằm để các Chính phủ và người dân chú ý hơn tới vấn đề nâng cao đời sống tinh thần, hạnh phúc trong quá trình phát triển của quốc gia mình. Kết quả nêu trên mặc dù mang tính chất tham khảo nhưng xét về mặt lâu dài của xu hướng phát triển bền vững thì đấy lại sự tiến bộ mà loài người hướng tới. Việt Nam hạ từ thang 77 xuống 65 với 12 bậc là rất đáng mừng.

Sau một chu trình phát triển nhanh, nóng ở một số quốc gia trên thế giới, nhân loại ngày càng có kinh nghiệm và hiểu ra rằng, sự đánh đổi phát triển theo chiều rộng cũng như cách tính GPD để đo đạt nền kinh tế quốc gia đã bộc lộ nhiều hạn chế. Tiêu chí về chỉ số hạnh phúc ngày càng được coi trọng, sự phát triển theo chiều sâu, bền vững cũng như tính ổn định và hạnh phúc của người dân đang là thước đo cho sự tin cậy mà người dân dành cho các Chính phủ.

Rõ ràng, giữa chỉ số hạnh phúc và quyền phát triển của con người là có mối quan hệ qua lại. Một quốc gia mà người dân cảm thấy an toàn, vui vẻ và hạnh phúc thì ở đó các giá trị phổ quát của con người hiện diện. Khi đời sống của người dân nâng cao, chất lượng các dịch vụ được đảm bảo, các quyền chính trị được thực thi, quyền công dân được tiến hành, chắc chắn người dân sẽ tỏ thái độ đồng tình và tin tưởng cao đối với thể chế chính trị và đảng cầm quyền. Việt Nam có đầy đủ các yếu tố cần và đủ như vậy. Do đó, có thể thấy rằng quyền phát triển của con người ở nước ta hiện nay ngày càng được khẳng định sâu sắc.

Vậy nên, ngày càng có nhiều nhà chính trị trong nước phát biểu một cách tự tin về những thành tựu trong lĩnh vực này trên diễn đàn trong nước và quốc tế. Chỉ nguyên việc không ngần ngại đề cập các khái niệm về quyền chính trị, quyền công dân, quyền phát triển của con người trong nhiều năm qua bởi các nhà lãnh đạo cấp cao Việt Nam cũng đủ để cho thấy một hình ảnh Việt Nam rất khác từ nhận thức lý luận đến thực tiễn hành động.

Đồng thời, nhân dân ta ngày càng tích cực tham gia hơn vào các hoạt của Nhà nước, người dân được thừa hưởng thành quả của công cuộc đổi mới và đặc biệt là các cơ hội phát triển của mỗi cá nhân đều rộng mở. Đảng và Nhà nước tôn trọng, bảo vệ quyền tự do, tôn giáo và tín ngưỡng của dân. Những kết quả đó cho thấy, nền kinh tế của Việt Nam đang trên đà phát triển với thực hiện tiến bộ và bảo đảm công bằng xã hội, một đặc trưng thể hiện tính ưu việt về bản chất chế độ chính trị của nước ta.

 

Friday, April 14, 2023

Quyền văn hóa cho người dân: nỗ lực đánh ghi nhận!

 

Sáng 27/2, tại Geneva, Thụy Sĩ, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang đã dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam dự khai mạc và phát biểu tại Phiên họp Cấp cao Khóa họp thường kỳ lần thứ 52 của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (LHQ). Đây là khóa họp đầu tiên, Việt Nam tham gia với tư cách thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025. Tại Khóa họp này, đoàn Việt Nam không chỉ ghi dấu ấn đã đề xuất, soạn thảo và được thông qua Nghị quyết về kỷ niệm 75 năm Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền và 30 năm Tuyên bố và Chương trình hành động Vienna, mà còn tích cực phát biểu, đóng góp ý kiến, trình bày kinh nghiệm, kết quả, thành tựu nhân quyền của Việt Nam tại nhiều phiên họp, thảo luận về đảm bảo các quyền cụ thể như quyền nhà ở; quyền lương thực; quyền văn hóa; quyền phát triển; quyền trẻ em; quyền tiếp cận công bằng, bình đẳng, kịp thời, với giá cả hợp lý đối với vaccine ngừa COVID-19...



Trong số các quyền trên, Việt Nam đã có nỗ lực và đạt thành tựu đáng ghi nhận trong đảm bảo quyền văn hóa cho người dân, cụ thể như:

Điều 41 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận: “Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa”.

Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực văn hóa, đặc biệt chú trọng việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa, tạo lập một hành lang pháp luật rộng mở, thuận lợi cho các hoạt động về bảo tồn di sản văn hóa và tự do hoạt động văn hóa; bảo vệ quyền tác giả, khuyến khích, cổ vũ sự tự do trong sáng tạo nghệ thuật của các tổ chức, cá nhân, như: Luật Di sản văn hóa 2009, Luật Xuất bản 2012, Luật Quảng cáo 2013, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ 2022,
Luật Điện ảnh (sửa đổi)
2022 nhằm thể chế hóa, nội luật hóa các cam kết và thông lệ quốc tế khi Việt Nam tham gia các cơ chế, điều ước quốc tế, bảo đảm tính ổn định, thống nhất, khuyến khích sáng tạo; đảm bảo quyền tiếp cận, thụ hưởng văn hóa và tham gia vào các hoạt động văn hóa của người dân; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước.

Nhiều đề án, chương trình đã được triển khai, trong đó Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020” đã được triển khai sâu rộng, tập trung ưu tiên phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số, các dân tộc không có điều kiện tự bảo vệ và phát huy di sản văn hóa của dân tộc mình.  Đề án đã hoàn thành việc rà soát, thống kê và hỗ trợ khẩn cấp, nâng cao năng lực tự bảo vệ nền văn hóa của các dân tộc thiểu số dưới 10.000 người, đặc biệt là 10 dân tộc, gồm: Brâu, Rơ Măm, Si La, Pu Péo, Bố Y, Ơ Đu, Lô Lô, Mảng, Cống, Cờ Lao. Chính phủ cũng phê duyệt chủ trương triển khai Dự án “Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch” thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030

Thiết chế văn hóa cơ sở là nơi thực hiện phúc lợi xã hội của nhân dân được hưởng thụ văn hóa qua các hội thi, liên hoan, tập luyện, giao lưu, truyền giữ các làn điệu dân ca, dân vũ. Khu vui chơi giải trí công cộng, công viên, nhà văn hóa, điểm bưu điện văn hóa xã, thư viện, sân vận động, rạp hát, rạp chiếu phim, điểm Internet công cộng… Người dân đều có quyền sử dụng các cơ sở, thiết chế văn hóa để phục vụ nhu cầu học tập, vui chơi, giải trí. Cả nước hiện có 67 thiết chế văn hoá cấp tỉnh; 683 Trung tâm Văn hoá - Thể thao cấp huyện đạt tỷ lệ95%; 7.194 Trung tâm Văn hoá-Thể thao cấp xã, đạt tỷ lệ 65,7% và có 75.3276 Nhà Văn hoá cấp thôn, bản… đạt tỷ lệ 74% do ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch quản lý.

Các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, trưng bày triển lãm, tuyên truyền cổ động được tổ chức sôi nổi, rộng khắp từ Trung ương đến cơ sở. Nhiều hoạt động, triển lãm mỹ thuật, triển lãm nhiếp ảnh lớn quy mô quốc gia, quốc tế, các hoạt động, chương trình giao lưu quốc tế có sức lan tỏa trong nước và nước ngoài, thu hút được đông đảo nghệ sĩ tham gia và số lượng người đến xem, hưởng thụ nghệ thuật tăng lên, từ đó góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của các tầng lớp nhân dân

 Sản xuất, cung cấp các ấn phẩm, sản phẩm văn hóa-thông tin cho các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu thuộc diện Chương trình phát triển kinh tế-xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa (Chương trình 135), trường dân tộc nội trú, phòng văn hóa và thông tin cấp huyện, các đồn biên phòng, đội truyên truyền văn hóa tại các vùng biên giới, biển, hải đảo. Triển khai các mô hình câu lạc bộ văn hóa, văn nghệ dân gian các dân tộc thiểu số; tổ chức chương trình hoạt động văn hóa nghệ thuật phục vụ đồng bào vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số, phục vụ hiệu quả các nhiệm vụ chính trị và các sự kiện chính trị, văn hoá, thể thao và du lịch trọng đại của đất nước, nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân.

Công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hoá tiếp tục được quan tâm, góp phần thúc đẩy phát triển du lịch, nhất là du lịch tín ngưỡng, văn hóa. Từ 2019-2021, Việt Nam đã bảo tồn, phục dựng, phát huy nhiều lễ hội truyền thống các dân tộc thiểu số (lễ hội Cầu mưa truyền thống của đồng bào dân tộc Lô Lô, tỉnh Hà Giang; lễ hội Ét Đông (Tết con dúi) của người Ba Na, tỉnh Kon Tum; lễ hội truyền thống dân tộc Khơ Mú, tỉnh Điện Biên; lễ hội truyền thống dân tộc M’nông, tỉnh Đăk Nông; lễ hội truyền thống dân tộc Bru, Vân Kiều, tỉnh Quảng Bình; lễ hội truyền thống dân tộc Lự, tỉnh Lai Châu; lễ hội truyền thống dân tộc Cơ Ho, tỉnh Lâm Đồng…); tổ chức các Ngày hội giao lưu văn hóa, thể thao và du lịch các dân tộc thiểu số theo các vùng và khu vực Tây Bắc, miền Trung, Tây Nguyên; dân tộc Thái, đồng bào Chăm… Bảo tồn, phát huy nghề thủ công truyền thống làm nón lá của đồng bào dân tộc Tày ở xã Tân An, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang; bảo tồn, tư liệu hóa và hỗ trợ truyền dạy nghề ươm tơ làng Cổ Chất, xã Phương Định, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định; truyền dạy và phát huy nghệ thuật múa sư tử dân tộc Tày, Nùng ở xã Hải Yến, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn; tư liệu hóa và hỗ trợ truyền dạy kỹ thuật trang trí nhà hỏa táng của người Chăm Bàlamôn ở tỉnh Bình Thuận; sưu tầm phục dựng bảo vệ lễ cúng phước của người Khmer ở huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng.

 Nhiều di sản văn hóa đã trở thành những sản phẩm văn hóa - du lịch hoàn chỉnh, vừa là động lực, vừa là mục tiêu cho sự phát triển ngành kinh tế mũi nhọn du lịch. Hiện nay, trên cả nước đã có trên 4 vạn di tích được kiểm kê, 10.000 di tích cấp tỉnh/thành phố, 3.599 di tích quốc gia, 123 di tích quốc gia đặc biệt và 08 Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới được UNESCO công nhận. Tính đến tháng 7/2022, Việt Nam có 14 di sản được UNESCO ghi danh, 431 di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Tính đến tháng 6/2022, hệ thống bảo tàng có 128 bảo tàng công lập và 62 bảo tàng ngoài công lập. 66 “Nghệ nhân nhân dân” và 1.121 “Nghệ nhân ưu tú” đã được vinh danh, trong đó những người có thu nhập thấp, hoàn cảnh khó khăn được hỗ trợ.  Di sản Việt Nam được bảo vệ theo thể chế bởi các Công ước UNESCO như Công ước 1972 về bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, Công ước 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể và những chương trình ký ức thế giới, hệ thống luật pháp và các cơ quan, ban ngành hữu quan. Một số Di sản văn hóa tiêu biểu của các dân tộc thiểu số tại Việt Nam đã được UNESCO ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể, đại diện của nhân loại như: thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam (tháng 12/2019), nghệ thuật xòe Thái (tháng 12/2021) nghệ thuật làm gốm của người Chăm (tháng 11/2022).

Từ năm 2000 đến nay, có khoảng hơn 600 thỏa thuận, hợp đồng hợp tác quốc tế về khoa học - công nghệ giữa Việt Nam và các đối tác được thực hiện tại các cơ sở nghiên cứu các cấp; hơn 500 nhiệm vụ nghiên cứu song phương giữa các tổ chức khoa học - công nghệ Việt Nam với các tổ chức khoa học - công nghệ của các nước đã và đang được thực hiện. Các hoạt động này đã tăng cường nguồn lực thông tin khoa học - công nghệ cho các nhà khoa học Việt Nam; từng bước làm chủ công nghệ của nước ngoài, nâng cao năng lực công nghệ cho các doanh nghiệp Việt Nam và qua đó, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tiêu chuẩn đo lường chất lượng và sở hữu trí tuệ, phòng, chống, hạn chế rủi ro do biến đổi khí hậu cũng góp phần đáp ứng yêu cầu của các thiết chế quốc tế mà Việt Nam đang tham gia, như Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ (BTA), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC)...

Với những thành tựu đáng kể nêu trên, Việt Nam tự hào, tự tin trên các diễn đàn thảo luận về thực thi quyền này ở Hội đồng Nhân quyền LHQ!

Monday, April 10, 2023

Quyền nhà ở cho người dân: nỗ lực đánh ghi nhận!

 

Sáng 27/2, tại Geneva, Thụy Sĩ, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang đã dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam dự khai mạc và phát biểu tại Phiên họp Cấp cao Khóa họp thường kỳ lần thứ 52 của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (LHQ). Đây là khóa họp đầu tiên, Việt Nam tham gia với tư cách thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025. Tại Khóa họp này, đoàn Việt Nam không chỉ ghi dấu ấn đã đề xuất, soạn thảo và được thông qua Nghị quyết về kỷ niệm 75 năm Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền và 30 năm Tuyên bố và Chương trình hành động Vienna, mà còn tích cực phát biểu, đóng góp ý kiến, trình bày kinh nghiệm, kết quả, thành tựu nhân quyền của Việt Nam tại nhiều phiên họp, thảo luận về đảm bảo các quyền cụ thể như quyền nhà ở; quyền lương thực; quyền văn hóa; quyền phát triển; quyền trẻ em; quyền tiếp cận công bằng, bình đẳng, kịp thời, với giá cả hợp lý đối với vaccine ngừa COVID-19...



Trong số các quyền trên, Việt Nam đã có nỗ lực và đạt thành tựu đáng ghi nhận trong đảm bảo quyền có nhà ở cho người dân, cụ thể như:

Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Công dân có quyền có nơi ở hợp pháp (Điều 22), “Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở…” (Điều 32) và Nhà nước “có chính sách phát triển nhà ở, tạo điều kiện để mọi người có chỗ ở” (Điều 59). Các nội dung này đã được thể chế hóa bằng Luật Nhà ở 2014 và cụ thể hóa trong chính sách hỗ trợ người có công với cách mạng về nhà ở theo Quyết định số 22/2013 QĐ - TTg ngày 26/04/2013 của Thủ tướng Chính phủ; Chương trình xây dựng cụm tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ Đồng bằng sông Cửu Long theo Quyết định số 173/2001; Nghị định số 49/2011 của Chính phủ về phát triển và quản lý nhà ở xã hội, sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 100/2015/NĐ-CP ban hành ngày 6/11/2021; Nghị định số 99/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật nhà ở, Nghị định số 100/2015/NĐ-CP về phát triển và quản lý nhà ở xã hội ban hành ngày 20/10/2015; Nghị định 101/2015/NĐ-CP số về cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư ban hành ngày 20/10/2015; Quyết định số 48/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chương trình hỗ trợ người nghèo xây dựng nhà ở, phòng chống bão lụt khu vực miền Trung ban hành ngày 28/8/2014; Quyết định số 33/2015/QĐ-TTg về chính sách hỗ trợ nhà ở đối với hộ nghèo theo tiêu chuẩn nghèo giai đoạn 2011 – 2015 (Chương trình hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở theo Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg giai đoạn 2) ban hành ngày 10/8/2015. Để khuyến khích và thúc đẩy việc phát triển nhà ở cho công nhân thuê tại các khu công nghiệp, Chính phủ xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Nhà ở, Luật Đất đai, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công theo hướng: tách đối tượng người lao động đang làm việc tại các doanh nghiệp trong và ngoài khu công nghiệp ra khỏi đối tượng hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở xã hội; bổ sung chính sách về nhà ở cho người lao động làm việc tại các doanh nghiệp...

Chính phủ đã có nhiều chính sách hỗ trợ phát triển nhà ở xã hội, như “Chiến lược Phát triển nhà ở quốc giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045” với các yêu cầu, định hướng mới về nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân đáp ứng nhu cầu với giá cả phù hợp với khả năng chi trả của hộ gia đình có thu nhập trung bình, thu nhập thấp, Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, triển khai Nghị quyết 43 ngày 11/1/2022 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ, nhấn mạnh công tác bảo đảm an sinh xã hội và đời sống (trong đó có nhà ở) của người dân, nhất là người lao động, người nghèo, người yếu thế…, hỗ trợ tín dụng đối với nhà ở xã hội, nhà ở công nhân và cải tạo, xây dựng lại chung cư, theo đó có hai gói hỗ trợ: Đối tượng khách hàng cá nhân thực hiện vay thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội với tổng số vốn 15.000 tỉ đồng; gói hỗ trợ thực hiện thông qua các ngân hàng Chính sách xã hội với mức hỗ trợ lãi suất 2% cho các chủ đầu tư xây dựng nhà ở xã hội và nhà ở cho công nhân. Gói hỗ trợ 15.000 tỉ đồng thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam cho các cá nhân vay mua, thuê mua và cải tạo nhà ở với lãi suất 4,8%; hỗ trợ lãi suất 2% đối với các chủ đầu tư xây dựng nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân, cải tạo chung cư cũ... được thực hiện qua hệ thống ngân hàng thương mại với quy mô gói hỗ trợ khoảng 40.000 tỉ đồng cấp bù lãi suất. Hai gói hỗ trợ này được thực hiện trong hai năm 2022 và 2023, được xem là động lực thúc đẩy nhà ở xã hội phát triển.

Nhiều đối tượng là người lao động người thu nhập thấp tại khu vực đô thị đã được nhà nước tạo điều kiện hỗ trợ về nhà ở. Đến tháng 1/2018, 10.653 tỷ 422 triệu đồng từ ngân sách nhà nước đã được cấp cho các địa phương thực hiện chính sách người có công cần hỗ trợ về nhà ở của 63 tỉnh, thành phố.

Tính đến tháng 12/2020, 117.427/236.324 hộ nghèo được hỗ trợ xây dựng sửa chữa nhà ở đạt tiêu chuẩn 3 cứng (nền cứng, khung - tường cứng, mái cứng) đạt tỉ lệ 50% số lượng phải hỗ trợ thực tế. Số hộ nghèo tham gia chương trình chính sách hỗ trợ hộ nghèo xây dựng nhà ở phòng tránh bão lụt khu vực miền Trung theo Quyết định số 48/2014/QĐ-TTg ban hành ngày 28/8/2014 là 26.097 hộ. Tính đến tháng 11/2021, các địa phương đã thực hiện hỗ trợ được khoảng 19.023/23.797 hộ nghèo xây dựng sửa chữa nhà ở phòng tránh bão lụt, đạt tỷ lệ 80%.

Việc xây dựng nhà ở xã hội theo Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia tiếp tục được quan tâm, đẩy mạnh, ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu nhà ở của người dân, đặc biệt là người cỏ công, người nghèo ở khu vực thường xuyên bị bão, lũ, ngập lụt, người thu nhập thấp đô thị.

Về nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp và người lao động tại các khu công nghiệp, đã hoàn thành 301 dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân; đang tiếp tục triển khai 401 dự án, hoàn thành đầu tư xây dựng 126 dự án với quy mô xây dựng khoảng 62.700 căn hộ với tổng diện tích 3.135m²; đang tiếp tục triển khai 127 dự án với quy mô xây dựng khoảng 160.900 căn hộ tổng diện tích 8.045.500m². Chương trình phát triển nhà ở xã hội cho người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị đã hoàn thành việc đầu tư xây dựng 175 dự án, quy mô khoảng 93.100 căn hộ với tổng diện tích khoảng 4.655m2; tiếp tục triển khai 274 dự án quy mô khoảng 293.500 căn hộ với tổng diện tích khoảng 14.673.000m2.

Từ đầu năm 2022 đến nay, tổng số lượng nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân khu công nghiệp đã được khởi công là 17 dự án với tổng số khoảng 31.230 căn, trong đó nhà ở xã hội 14 dự án quy mô 27.870 căn. Đến nay trên cả nước đã thực hiện giải ngân được 2.262 tỷ đồng cho 6.500 khách hàng thuộc đối tượng vay để mua, thuê nhà xã hội nhà công nhân xây dựng mới hoặc cải tạo, sửa chữa nhà ở. Trên cơ sở rà soát các điều kiện đã được quy định tại Nghị định số 31/2022/NĐ-CP về hỗ trợ lãi suất từ ngân hàng nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh được ban hành ngày 20/5/2022, Bộ Xây dựng đã công bố danh mục các dự án đủ điều kiện được vay đợt 1 và đợt 2 là 15 dự án nhà ở xã hội nhà ở công nghiệp với mức tổng đầu tư là 14.331 tỷ đồng tổng mức vay dự kiến là 6.096 tỷ đồng.

Khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản của người dân đã được cải thiện. Tỷ lệ dân số sống trong hộ tiếp cận với các dịch vụ cơ bản đạt 94,6% năm 2020 so với 92,7% năm 2018. Riêng năm 2020, tỷ lệ hộ sử dụng điện sinh hoạt đạt 99,5%; có tới 99,9% hộ có đồ dùng lâu bền; tỷ lệ hộ sử dụng hố xí hợp vệ sinh đạt 94%; chất lượng nhà ở của các hộ gia đình cũng được cải thiện và đạt ở mức cao với 95,6% hộ gia đình sống trong nhà kiên cố và bán kiên cố. Năm 2020, tỷ lệ hộ gia đình sống trong nhà kiên cố và bán kiên cố lên tới 95,6%, chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ (1,2%) hộ gia đình còn sống trong nhà tạm (đơn sơ), thấp hơn so với tỷ lệ này năm 2018 (1,7%). Sự cải thiện chất lượng nhà ở qua xu hướng giảm mạnh tỷ lệ hộ phải sống trong nhà tạm được ghi nhận ở mọi tiêu chí, từ thành thị đến nông thôn, ở khắp các vùng miền và nhóm dân cư.

Chính sách về phát triển nhà ở còn được thể hiện trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, tuân thủ quy hoạch, chương trình và kế hoạch phát triển nhà ở trong từng giai đoạn của mỗi địa phương, bảo đảm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển nhà ở, khắc phục tình trạng lệch pha cung-cầu trong phát triển nhà ở, phát triển đa dạng và hài hòa các loại hình nhà ở bao gồm nhà ở chung cư, nhà ở riêng lẻ; nhà ở để bán, cho thuê, cho thuê mua phù hợp với nhu cầu, khả năng chi trả của từng nhóm đối tượng trong xã hội, bảo đảm công khai, minh bạch trong phát triển và quản lý sử dụng nhà ở.

Với những thành tựu đáng kể nêu trên, Việt Nam tự hào, tự tin trên các diễn đàn thảo luận về thực thi quyền này ở Hội đồng Nhân quyền LHQ!