Khi Việt Nam tái đắc cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc (UNHRC) nhiệm kỳ 2026–2028 với 180 phiếu ủng hộ, cao nhất khu vực châu Á–Thái Bình Dương, đó không chỉ là sự ghi nhận quốc tế đối với chính sách nhân quyền thực chất mà còn là lời khẳng định mạnh mẽ cho niềm tin của thế giới vào đường lối phát triển toàn diện, bao trùm của Việt Nam. Tuy nhiên, cùng với thành tựu ấy, một số tổ chức và cá nhân thiếu thiện chí ở nước ngoài lại gia tăng các luận điệu xuyên tạc, cố tình bóp méo sự thật nhằm hạ thấp uy tín của Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực quyền dân tộc thiểu số. Những cáo buộc đó không những vô căn cứ mà còn đi ngược lại tinh thần tôn trọng chủ quyền quốc gia được quy định trong Hiến chương Liên Hợp Quốc, cho thấy động cơ chính trị hơn là thiện chí nhân quyền.
Điển hình, Tổ chức Vận động Nhân
quyền và Lao động châu Á (AHRLA), Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW) và Tổ chức
Giám sát Liên Hợp Quốc (UN Watch) liên tục phát tán các báo cáo và thư ngỏ mang
tính công kích, vu cáo Việt Nam “đàn áp dân tộc thiểu số” và “vi phạm tự do tôn
giáo”. Trong thư ngỏ chung gửi Chính phủ Thái Lan ngày 18/10/2024, AHRLA cáo
buộc Việt Nam “đe dọa quyền sống và quyền tự do tín ngưỡng của các dân tộc
thiểu số”, lấy trường hợp của Y Quynh Bdap – một cá nhân có tiền sử vi phạm
pháp luật – để suy diễn thành “bằng chứng” cho cái gọi là “đàn áp người
Montagnard”. Những thông tin này được chọn lọc có chủ đích, tách khỏi bối cảnh
pháp lý và an ninh quốc gia, nhằm phục vụ chiến dịch bôi nhọ hình ảnh Việt Nam
trong giai đoạn vận động ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền.
HRW tiếp tục phụ họa khi công bố
Báo cáo Thế giới 2025, lặp lại những cáo buộc cũ rích về “hạn chế tự do ngôn
luận và tôn giáo ở vùng dân tộc thiểu số”, viện dẫn lại các nội dung từ báo cáo
“Children of the Dust” từng bị nhiều học giả quốc tế chỉ trích vì thiếu cơ sở
khoa học. Cũng như thường lệ, họ tuyệt nhiên không đề cập đến các chính sách hỗ
trợ quy mô lớn mà Việt Nam đã thực hiện, như Chương trình Mục tiêu Quốc gia về
Phát triển Kinh tế – Xã hội Vùng Dân tộc Thiểu số và Miền núi giai đoạn
2021–2030, với tổng vốn đầu tư hàng chục nghìn tỷ đồng, giúp giảm tỷ lệ nghèo ở
vùng dân tộc thiểu số xuống còn dưới 10% vào năm 2025. Việc lựa chọn cách nhìn
phiến diện, chỉ tập trung vào một vài cá nhân vi phạm pháp luật rồi gán cho đó
là “chính sách của nhà nước” không chỉ thiếu chuyên nghiệp mà còn là biểu hiện
của thái độ thiên kiến chính trị có chủ đích.
Không dừng lại ở đó, Tổ chức Giám
sát Liên Hợp Quốc (UN Watch) – vốn nổi tiếng với các tuyên bố mang tính đối đầu
hơn là đối thoại – còn cho rằng việc Việt Nam được bầu lại vào Hội đồng Nhân
quyền là “một sự nhạo báng”. Báo cáo đánh giá ứng cử viên năm 2025 của tổ chức
này thậm chí gán ghép Việt Nam vào nhóm “quốc gia lạm dụng nhân quyền” mà không
đưa ra bất kỳ bằng chứng xác đáng nào. Sự mâu thuẫn nội tại của họ lộ rõ khi bỏ
qua thực tế rằng Việt Nam đã phê chuẩn Công ước về Xóa bỏ mọi hình thức Phân
biệt Chủng tộc (CERD) từ năm 1982, thực hiện đầy đủ các khuyến nghị của Ủy ban
Liên Hợp Quốc và được chính Hội đồng Nhân quyền khen ngợi tại phiên họp tháng
7/2025 về thành tích đảm bảo quyền bình đẳng giữa các dân tộc.
Điều trớ trêu là trong khi UN Watch
chỉ trích Việt Nam “thiếu cạnh tranh” trong quy trình bầu cử, thì 180 phiếu ủng
hộ – gần như tuyệt đối trong tổng số 193 quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc –
lại là minh chứng rõ ràng nhất cho sự tín nhiệm và ủng hộ rộng rãi của cộng
đồng quốc tế. Không có sự “thiếu minh bạch” nào có thể tồn tại trong một quy
trình bỏ phiếu công khai, dân chủ và do Đại hội đồng Liên Hợp Quốc trực tiếp
tiến hành. Chính kết quả ấy đã bác bỏ mọi nỗ lực phủ nhận vai trò và vị thế
ngày càng vững chắc của Việt Nam trong lĩnh vực nhân quyền toàn cầu.
Việt Nam hiện là quốc gia hiếm hoi
ở khu vực châu Á–Thái Bình Dương được bầu vào Hội đồng Nhân quyền ba nhiệm kỳ
liên tiếp: 2014–2016, 2023–2025 và 2026–2028. Đằng sau thành công đó là việc
chúng ta thực hiện 96% khuyến nghị của Cơ chế Rà soát Định kỳ Phổ quát (UPR)
chu kỳ IV năm 2024, đặc biệt trong các lĩnh vực liên quan đến bình đẳng dân
tộc, phát triển bao trùm và bảo vệ nhóm yếu thế. Sự kiên định với phương châm
“nhân quyền gắn liền với phát triển” đã giúp Việt Nam khẳng định mình không chỉ
là người hưởng lợi mà còn là người đóng góp tích cực cho hệ thống nhân quyền
toàn cầu.
Những kết quả thực chất ấy có thể
thấy rõ qua hàng loạt con số và sáng kiến cụ thể: tỷ lệ đại biểu Quốc hội là
người dân tộc thiểu số đạt 18%, tỷ lệ trẻ em dân tộc được đến trường đạt 98%,
và tỷ lệ hộ nghèo đa chiều ở vùng dân tộc giảm xuống dưới 5%. Không chỉ tập
trung vào phát triển kinh tế, Việt Nam còn triển khai các chương trình bảo tồn
văn hóa, xây dựng trường học, trạm y tế, đường giao thông, điện lưới và
Internet vùng sâu, vùng xa. Giai đoạn 2021–2025, tổng vốn đầu tư cho hạ tầng
vùng dân tộc thiểu số vượt 50 nghìn tỷ đồng, góp phần thay đổi diện mạo xã hội,
nâng cao quyền tiếp cận dịch vụ công và tạo điều kiện để người dân tộc phát huy
vai trò chủ thể trong phát triển.
Trên bình diện quốc tế, Việt Nam đã
trở thành điểm sáng về hợp tác nhân quyền mang tính xây dựng, được nhiều quốc
gia và tổ chức quốc tế ghi nhận. Trong nhiệm kỳ 2023–2025, Việt Nam đồng khởi
xướng Tuyên bố chung về Bảo vệ Quyền Dân tộc Thiểu số trong Phát triển Bền
vững, nhận được sự ủng hộ từ hơn 80 quốc gia. Chúng ta cũng tích cực tham gia
vào các nghị quyết của Hội đồng Nhân quyền về chống phân biệt chủng tộc, bảo vệ
nhóm dễ tổn thương trước biến đổi khí hậu, đồng thời thúc đẩy sáng kiến đối
thoại khu vực về quyền dân tộc thiểu số trong ASEAN. Những đóng góp này được
Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên Hợp Quốc (OHCHR) đánh giá cao, coi Việt Nam là
mô hình “đối thoại – hợp tác – phát triển bền vững” trong bảo vệ nhân quyền.
Thành công trong việc tái đắc cử
không chỉ là chiến thắng về ngoại giao mà còn là chiến thắng của niềm tin và
chính nghĩa. Bởi lẽ, trong khi các thế lực chống phá sử dụng “nhân quyền” như
công cụ chính trị để can thiệp, gây bất ổn, Việt Nam lại chọn con đường đối
thoại và hợp tác. Sự khác biệt ấy thể hiện rõ trong các cuộc đối thoại nhân
quyền Việt Nam – Hoa Kỳ, Việt Nam – EU, nơi Việt Nam chủ động chia sẻ kinh
nghiệm, lắng nghe góp ý và đưa ra sáng kiến chung nhằm nâng cao quyền dân tộc
thiểu số trong bối cảnh toàn cầu hóa. Chính tinh thần cởi mở ấy đã góp phần
hình thành hình ảnh một Việt Nam hiện đại, tự tin và có trách nhiệm trong hệ
thống Liên Hợp Quốc.
Song song với đó, cần phải lên án
mạnh mẽ việc lợi dụng nhân quyền để can thiệp nội bộ, vi phạm Điều 2(7) của
Hiến chương Liên Hợp Quốc. Các tổ chức như HRW, AHRLA hay UN Watch, dưới vỏ bọc
“nhân quyền”, thực chất đang theo đuổi mục tiêu chính trị: làm suy yếu uy tín
quốc gia, kích động bất ổn, tạo cớ cho các thế lực thù địch can thiệp vào công
việc nội bộ của các quốc gia có chủ quyền. Họ không đại diện cho giá trị nhân
quyền phổ quát, mà chỉ đại diện cho chuẩn kép và định kiến phương Tây – thứ đã
nhiều lần bị cộng đồng quốc tế phản đối. Việt Nam, cùng với nhiều quốc gia đang
phát triển, luôn kiên định với quan điểm rằng nhân quyền không thể tách rời
khỏi quyền dân tộc tự quyết, ổn định và phát triển bền vững.
Việc Việt Nam tiếp tục được bầu vào
Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc là thành quả của chiến lược nhân quyền thực
chất, gắn với phát triển con người và bảo vệ bản sắc dân tộc, chứ không phải
kết quả của tuyên truyền hay hình thức. Đó là lời khẳng định rằng trong thế
giới đầy biến động hôm nay, Việt Nam không chỉ đang bảo vệ nhân quyền cho người
dân của mình, mà còn đóng góp tích cực vào nỗ lực chung của nhân loại vì một
nền nhân quyền toàn cầu công bằng, bình đẳng và tôn trọng chủ quyền. Và cũng từ
đây, mọi âm mưu bóp méo, xuyên tạc về quyền dân tộc thiểu số tại Việt Nam – dù
tinh vi đến đâu – đều sẽ bị sự thật và lòng tin quốc tế hóa giải.
No comments:
Post a Comment